Mặc dù khối lượng gạo xuất khẩu trong 8 tháng năm 2025 tăng 2,2%, nhưng giá trị lại giảm tới 17,5% do giá bình quân giảm 19,3%. (Ảnh: CTV/Vietnam+) |
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 8 tháng năm 2025 đạt 45,37 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2024. Chỉ riêng trong tháng 8/2025, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt 5,71 tỷ USD, giảm 3% so với tháng 8 năm 2024.
Xuất khẩu chăn nuôi dẫn đầu về tăng trưởng
Trong hơn 45 tỷ USD xuất khẩu nhóm hàng trên, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 24,42 tỷ USD, tăng 13,8%; giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 410,7 triệu USD, tăng 24,5%; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 7,03 tỷ USD, tăng 11,5%; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 11,9 tỷ USD, tăng 6,6%; giá trị xuất khẩu đầu vào sản xuất đạt 1,6 tỷ USD, tăng 30,4%; giá trị xuất khẩu muối đạt 7,1 triệu USD, tăng 2 lần.
Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam với thị phần chiếm 43,1%. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,2% và 14,6%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3,1% và 1,3%.
So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam 8 tháng năm 2025 sang khu vực châu Á tăng 1,2%; châu Mỹ tăng 10,6%; châu Âu tăng 38,7%; châu Phi tăng 2 lần; và châu Đại Dương tăng 2,8%.
Xét theo thị trường chi tiết, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu dẫn đầu với thị phần chiếm 20,9%, Trung Quốc với thị phần 19% và Nhật Bản với thị phần 7,1%, đây là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản lớn nhất của Việt Nam. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam 8 tháng năm 2025 sang thị trường Hoa Kỳ tăng 8,1%, Trung Quốc tăng 2,6% và Nhật Bản tăng 19,8%.
Xuất khẩu chè, gạo và rau quả có xu hướng giảm
Trong nhóm mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất 8 tháng năm 2025, gỗ và sản phẩm gỗ dẫn đầu với giá trị xuất khẩu đạt 11,1 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2024, Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ lớn nhất, chiếm 56% thị phần, tiếp theo là Nhật Bản (12,4%) và Trung Quốc (10,9%).
Hàng thủy sản đứng thứ hai với giá trị xuất khẩu đạt 7,03 tỷ USD, tăng 11,5%, các thị trường tiêu thụ lớn nhất là Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản, chiếm lần lượt 19,8%, 17,2% và 15,1%. Càphê cũng là một mặt hàng xuất khẩu nổi bật với giá trị đạt 6,42 tỷ USD, tăng 59,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Đức, Italy và Tây Ban Nha là các thị trường lớn nhất.
Một số mặt hàng ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể về giá trị xuất khẩu. Đơn cử, càphê tăng 59,1% về giá trị, nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 46,4%. Hạt tiêu cũng ghi nhận giá trị tăng 26,9%, mặc dù khối lượng giảm 9,8%, do giá bình quân tăng 40,7%. Cao su tăng 10,2% về giá trị, chủ yếu nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 11,5%.
Tương tự, hạt điều tăng 16,4% về giá trị, mặc dù khối lượng giảm 1,2%, nhờ giá bình quân tăng 17,8%. Sản phẩm chăn nuôi cũng tăng mạnh với giá trị xuất khẩu tăng 24,5%, đặc biệt là thịt và phụ phẩm tăng 30,4%. Hàng thủy sản tăng 11,5% về giá trị, trong đó thị trường Trung Quốc tăng mạnh nhất, đạt mức tăng 44,1%.
Ngược lại, một số mặt hàng ghi nhận sự sụt giảm về giá trị xuất khẩu. Rau quả giảm 2,2% về giá trị, chủ yếu do thị trường Trung Quốc giảm 15,1%. Gạo mặc dù khối lượng xuất khẩu tăng 2,2%, nhưng giá trị lại giảm tới 17,5% do giá bình quân giảm 19,3%. Chè cũng giảm cả về khối lượng (7,9%) và giá trị (11%), với giá xuất khẩu bình quân giảm 3,4%.
Về thị trường xuất khẩu, các mặt hàng ghi nhận sự phân hóa rõ rệt. Giá trị xuất khẩu càphê tăng mạnh tại Mexico (91,2 lần) và thấp nhất ở Trung Quốc (11,7%). Cao su có giá trị tăng mạnh nhất tại Malaysia (3,2 lần) và giảm mạnh nhất tại Ấn Độ (31,2%). Giá trị xuất khẩu chè tăng mạnh tại Iraq (82,5%) và giảm mạnh tại UAE (46,5%). Gạo ghi nhận mức tăng mạnh tại Bangladesh (188,4 lần) và giảm mạnh tại Malaysia (54,4%).
Rau quả có giá trị xuất khẩu tăng mạnh tại Hoa Kỳ (66,3%) và giảm mạnh tại Thái Lan (40,4%). Hạt điều tăng mạnh tại Litva (57%) và giảm mạnh tại Hoa Kỳ (11,7%). Hạt tiêu tăng mạnh tại Anh (2,2 lần) và giảm mạnh tại UAE (25,7%). Sắn và các sản phẩm từ sắn ghi nhận giá trị tăng mạnh tại Malaysia (13,6%) và giảm mạnh tại Đài Loan-Trung Quốc (29%).
Nhìn chung, các mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất là gỗ, thủy sản và càphê. Tuy nhiên, một số mặt hàng như chè, gạo và rau quả lại có xu hướng giảm giá trị xuất khẩu, chủ yếu do giá bình quân giảm. Các thị trường xuất khẩu có sự phân hóa rõ rệt, với sự tăng trưởng mạnh ở một số thị trường và sụt giảm đáng kể ở các thị trường khác./.
Nguồn: https://huengaynay.vn/kinh-te/xuat-khau-nong-lam-thuy-san-dat-45-3-ty-usd-duy-tri-tang-truong-hai-con-so-157426.html
Bình luận (0)