Minh bạch hóa sản xuất và quản lý
Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp ngày càng chịu áp lực về chi phí và năng suất, việc ứng dụng công nghệ là giải pháp mang tính chiến lược.
Bà Đào Thị Như Hè, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Sài Gòn Kim Hồng khẳng định, nông nghiệp hiện đại không thể thiếu vai trò của máy móc và tự động hóa.
Một trong những công nghệ nổi bật đang được triển khai trong sản xuất lúa hiện nay là sạ cụm, giúp giảm đáng kể lượng giống. Theo phương pháp truyền thống, nông dân thường gieo từ 120 - 200kg giống/ha. Tuy nhiên với sạ cụm, lượng giống chỉ còn khoảng 50 – 60kg/ha. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn giúp cây lúa sinh trưởng tốt hơn, giảm tình trạng đổ ngã và hạn chế thất thoát sau thu hoạch.
Sạ cụm - phương pháp ứng dụng cơ giới hóa đang được đánh giá cao trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.
Ngoài việc giảm chi phí, công nghệ này cũng giúp tiết kiệm khoảng 30% lượng phân bón so với phương pháp gieo sạ truyền thống. Khi lượng phân bón giảm, số lần phun thuốc trừ sâu cũng giảm từ 2 – 3 lần/vụ do cây lúa khỏe và ít sâu bệnh tấn công hơn. Sạ cụm đã giúp giảm 20 – 30% chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho nông dân.
Bên cạnh sạ cụm, ứng dụng máy bay không người lái trong nông nghiệp (drone) cũng được đánh giá giúp nông dân tiết kiệm đáng kể thời gian và công sức. Nếu như trước đây, việc phun thuốc bảo vệ thực vật chủ yếu dựa vào lao động thủ công với năng suất tối đa chỉ khoảng 1ha/người/ngày thì drone có thể xử lý diện tích lên đến vài chục ha mỗi ngày. Đặc biệt, bà con nông dân hạn chế tiếp xúc trực tiếp với hóa chất độc hại.
Để mở rộng việc ứng dụng drone trong nông nghiệp, bà Hè đề xuất mô hình liên kết giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ.
“Thay vì từng nông dân đầu tư drone riêng lẻ với chi phí cao từ 400 – 500 triệu đồng/máy, ngành nông nghiệp các địa phương cần thành lập trung tâm điều phối để tối ưu hóa thiết bị, đảm bảo vùng nào cần sẽ có drone hoạt động ngay”, bà Hè nhấn mạnh.
Thiết bị bay không người lái trong nông nghiệp (drone) phát huy được hiệu quả, sản xuất nhanh trên phạm vi rộng. Ảnh: Kim Anh.
Công ty Sorimachi Việt Nam hiện đang xây dựng và triển khai nhiều phần mềm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Có thể kể đến như phần mềm kế toán HTX (WaCa), phần mềm nhật ký sản xuất (Facefarm)...
Những ứng dụng này cho phép nông dân, HTX lập kế hoạch sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm bằng mã QR; quản lý, hỗ trợ, giám sát vùng trồng lúa bằng bản đồ; đối chiếu doanh thu, lợi nhuận giữa các HTX với nhau; quản lý tín dụng nội bộ, lập báo cáo tài chính...
Ông Nguyễn Thanh Mộng - Giám đốc Phát triển thị trường của Công ty Sorimachi Việt Nam chia sẻ, việc ứng dụng công nghệ số sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước có cái nhìn tổng thể, minh bạch thông tin trong quản lý hoạt động sản xuất nông nghiệp. Khi dữ liệu được đồng bộ trên nền tảng số, cơ quan quản lý có thể nhanh chóng xác định tình hình tài chính của các HTX, năng suất cây trồng theo từng vùng, từ đó có chính sách hỗ trợ kịp thời.
Tại HTX nông nghiệp tổng hợp Ba Đình (tỉnh Bạc Liêu), ông Nông Văn Trạch, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc HTX cho biết, trước đây do năng lực tiếp cận công nghệ của HTX còn hạn chế nên gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý sản xuất và ghi chép nhật ký canh tác khi tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.
Sau khi được tiếp cận hai phần mềm Facefarm và WaCa từ năm 2022 đến nay, HTX được tập huấn tham gia 12 cuộc tập huấn. Thông qua nền tảng công nghệ, các thành viên dễ dàng theo dõi và kiểm soát chi phí sản xuất, đảm bảo lợi nhuận. Nhất là có cơ hội tiếp cận với nhiều đối tác hơn để mở rộng đầu ra.
Rào cản trong kết nối, chia sẻ dữ liệu
Mặc dù lợi ích của công nghệ và chuyển đổi số đã được chứng minh nhưng khi mở rộng để ứng dụng vào thực tế lại gặp nhiều thách thức.
Một trong những vấn đề lớn nhất được ông Nguyễn Thanh Mộng chỉ ra là khó khăn trong việc kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan quản lý và đơn vị cung cấp giải pháp công nghệ.
Lợi ích của công nghệ và chuyển đổi số đã được chứng minh, nhưng việc mở rộng trong thực tế lại gặp nhiều thách thức. Ảnh: Kim Anh.
Điển hình, nhiều thông tin quan trọng như mã số vùng trồng hiện vẫn do Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) quản lý nội bộ khiến các doanh nghiệp công nghệ không thể khai thác hiệu quả.
Ông Mộng nhấn mạnh, nếu không có sự kết nối giữa nền tảng số của doanh nghiệp công nghệ với dữ liệu của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thì việc truy xuất nguồn gốc vẫn là rào cản lớn. Tương tự, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cũng cần mở cổng dữ liệu về thuốc bảo vệ thực vật để nông dân có thể tra cứu nhanh chóng danh mục thuốc được phép sử dụng theo từng thị trường xuất khẩu.
Bên cạnh vấn đề dữ liệu, nhận thức và năng lực sử dụng công nghệ của nông dân và cán bộ quản lý cũng là một thách thức. Hiện nay, nhiều HTX vẫn chưa quen với các phần mềm quản lý số, trong khi một số cán bộ địa phương chưa đủ kỹ năng để hướng dẫn nông dân triển khai công nghệ mới.
Để giải quyết các thách thức trên, việc đào tạo và nâng cao năng lực cho nông dân và HTX là điều cần thiết.
Ông Lê Đức Thịnh - Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tiếp tục tổ chức các chương trình tập huấn. Qua đây, bà con nông dân có thể làm quen với công nghệ và khai thác hiệu quả các công cụ chuyển đổi số.
Thực tế, Công ty Sorimachi Việt Nam đã triển khai dự án thí điểm chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nông nghiệp. Dự án nhằm mục tiêu hướng dẫn cho nông dân, HTX sử dụng hiệu quả phần mềm Waca và Facefarm, hỗ trợ canh tác giảm phát thải khí nhà kính khi tham gia vào Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.
Ứng dụng công nghệ là giải pháp quan trọng để triển khai thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Ảnh: Kim Anh.
Đến nay, dự án đã đào tạo được 70 cán bộ ToT cho 12 tỉnh, thành tham gia Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và dự kiến mở rộng tập huấn trực tuyến cho đội ngũ cán bộ ToT ở 51 tỉnh còn lại trên cả nước; xây dựng 30 HTX điển hình thực hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nông nghiệp.
Đặc biệt, cách làm này đã thay đổi nhận thức của cán bộ địa phương và HTX trong việc ứng dụng các phần mềm. Hiện đã có hơn 7.000 đơn vị có tài khoản sử dụng 2 phần mềm Waca và Facefarm; hơn 600 HTX, đơn vị đã chủ động đầu tư kinh phí trang bị phần mềm để sử dụng và 15 sở nông nghiệp và môi trường đã đưa vào kế hoạch bố trí kinh phí để trang bị các phần mềm này để hỗ trợ cho các HTX trên địa bàn.
Công nghệ và chuyển đổi số đang trở thành chìa khóa cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp. Những tiến bộ này giúp nông dân và doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được kết quả tối ưu, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên, từ doanh nghiệp cung cấp giải pháp, cơ quan quản lý đến chính những người trực tiếp sản xuất.
Bình luận (0)