Trước đó, Để ứng phó với những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình địa chính trị kinh tế trên thế giới, đặc biệt việc thay đổi chính sách kinh tế, thương mại, thuế quan, tác động nhanh chóng, mạnh mẽ, sâu sắc, nhiều chiều đến kinh tế, đầu tư và thương mại toàn cầu, trong đó có Việt Nam, tại Chỉ thị 06/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/3/2025, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương trình Chính phủ việc sửa Nghị định 26/2023/NĐ-CP ngày 31/5/2023 để điều chỉnh thuế suất một số nhóm mặt hàng đảm bảo hài hòa, hợp lý theo trình tự thủ tục rút gọn, hoàn thành trong tháng 3 năm 2025.
Phóng viên: Thưa ông, việc điều chỉnh sửa Nghị định 26/2023/NĐ-CP có vai trò như thế nào trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện?
Ông Nguyễn Quốc Hưng: Ngày 11/9/2023 Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Đây là dấu mốc quan trọng trong đường lối chính trị, ngoại giao kinh tế của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế địa chính trị của Việt Nam trên thế giới. Tại Tuyên bố chung về kinh tế thương mại đầu tư, hai quốc gia nhất trí tạo điều kiện thuận lợi và mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng hóa, dịch vụ của mỗi nước.
Ngoài ra, Việt Nam đã thiết lập đối tác chiến lược toàn diện với 11 quốc gia khác: Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Pháp, Malaixia, New Zealand, Indonesia, Singapore. Trong đó 11/12 quốc gia này đã nằm trong các Hiệp định thương mại song phương và đa phương và Việt Nam là thành viên và được hưởng các ưu đãi về thuế quan tại các Hiệp định này. Mặc dù Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập Hiệp định thương mại song phương từ năm 2001 nhưng Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có Hiệp định thương mại tự do về cắt giảm thuế quan nên Hoa Kỳ vẫn là đối tác chịu mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi (MFN) áp dụng chung cho các quốc gia là thành viên WTO.
Đối tác chiến lược Toàn diện là mức độ cao nhất trong hệ thống các mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia hoặc giữa quốc gia và tổ chức quốc tế. Đây là quan hệ chiến lược và dài hạn, được xác định bởi sự gắn kết lợi ích lâu dài, sự hỗ trợ đôi bên và sự thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Thực hiện chỉ thị số 06/CT-TTg ngày 10/3/2025 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để chủ động thích ứng linh hoạt, kịp thời, phù hợp, hiệu quả với tình hình thế giới, khu vực nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong năm 2025 và những năm tiếp theo, cần thiết điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng để đảm bảo đối xử công bằng giữa các Đối tác Chiến lược Toàn diện của Việt Nam.
Phóng viên: Ông có thể cho biết hướng điều chỉnh Nghị định này như thế nào thưa ông?
Ông Nguyễn Quốc Hưng: Bộ Tài chính đã rà soát tổng thể các mức thuế (Thuế nhập khẩu ưu đãi MFN (là mức thuế suất áp dụng cho các nước trong WTO), thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (là mức thuế suất áp dụng cho các quốc gia có Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam), thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế giá trị gia tăng) đối với các mặt hàng mà các nước quan tâm cũng như mức thuế mà các nước này đang áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu để xây dựng, định hướng chính sách thuế của Việt Nam nhằm cải thiện cán cân thương mại.
Đồng thời, Bộ Tài chính cũng so sánh tổng thể các mức thuế với các quốc gia là Đối tác chiến lược Toàn diện của Việt Nam để xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi của một số mặt hàng tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo Danh mục mặt hàng chịu thuế ban hành kèm theo Nghị định số 26/2023/NĐ-CP ngày 31 tháng 5 năm 2023 của chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
Việc xây dựng Nghị định nhằm mục đích: góp phần cải thiện cán cân thương mại với các Đối tác thương mại; khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa hàng hóa nhập khẩu, tạo sức mua cho người tiêu dùng; đảm bảo đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
Đồng thời, nguyên tắc xây dựng Nghị định cũng được chỉ rõ: đảm bảo thực hiện các nguyên tắc ban hành thuế suất quy định tại Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; điều chỉnh thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu; tập trung điều chỉnh thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu cao các nước quan tâm; mức thuế suất điều chỉnh cơ bản không thấp hơn các mức thuế suất của các Hiệp định Thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên; đảm bảo không phát sinh mức thuế suất mới tại Biểu thuế; đảm bảo thống nhất mức thuế suất đối với hàng hóa cùng tính chất, cùng chủng loại để hạn chế gian lận thương mại, gây khó khăn trong công tác phân loại, tính thuế hàng hóa.
Phóng viên: Xin ông có thể cho biết về dự kiến điều chỉnh thuế suất của các nhóm mặt hàng và hiệu lực của Nghị định?
Ông Nguyễn Quốc Hưng: Dự thảo Nghị định đã đề xuất giảm thuế nhập khẩu MFN đối với các nhóm mặt hàng: Ô-ô thuộc 03 mã hàng HS 8703.23.63, 8703.23.57, 8703.24.51 từ 64% và 45% về cùng một mức thuế suất là 32%; Ethanol từ 10% xuống 5%; Đùi gà đông lạnh từ 20% xuống 15%; Hạt dẻ cười từ 15% xuống 5%; Hạnh nhân từ 10% xuống 5%; Quả táo tươi từ 8% xuống 5%; Quả anh đào ngọt (Cherry) từ 10% xuống 5%; Nho khô từ 12% xuống 5%; Mặt hàng gỗ và các sản phẩm gỗ thuộc Nhóm 44.21, Nhóm 94.01 và 94.03 từ các mức thuế suất 20% và 25% xuống cùng một mức thuế suất là 5%; Mặt hàng khí tự nhiên dạng hóa lỏng (LNG) từ 5% xuống 2%; Mặt hàng Ethane: bổ sung mặt hàng Ethane vào Chương 98 với thuế suất 0%.
Nghị định sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: https://nhandan.vn/du-kien-se-ban-hanh-nghi-dinh-sua-doi-thue-suat-mfn-trong-thang-3-post867599.html
Bình luận (0)