Hành trình 80 năm phát triển của nền kinh tế Việt Nam có thể xem là một trang sử hào hùng, khác biệt và độc đáo về mô hình phát triển. Trang sử này có thể chia thành 3 giai đoạn lớn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mỗi giai đoạn có thể xem là một quá trình tìm tòi, sáng tạo với khát vọng vươn lên không ngừng để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Đây là giai đoạn nền kinh tế vận động trong điều kiện có chiến tranh và mục tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Chiến tranh chia cắt đất nước thành 2 miền Nam - Bắc và tàn phá tất cả các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Nếu tính GDP bình quân đầu người của cả nước Việt Nam thuộc vào nước có thu nhập thấp nhất thế giới. Các cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Bắc năm 1956-1958 đã tập trung hóa đất đai, tư liệu sản xuất để tổ chức sản xuất theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Thời kỳ này, phải dựa vào viện trợ để duy trì sinh kế và ổn định.
Đây là giai đoạn thống nhất đất nước nhưng lại tiếp tục chịu tác động của cả chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc. Đây là giai đoạn thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh năm 1976 để phát triển các xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, nông trường quốc doanh và liên hiệp các xí nghiệp thuộc các ngành nghề theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Đây cũng là giai đoạn diễn ra 2 lần đổi tiền năm 1978 và năm 1985. Điểm đáng chú ý là lạm phát năm 1985 đạt hơn 700%, nền kinh tế thiếu hụt hàng hóa trầm trọng, GDP bình quân đầu người chỉ hơn 200 USD. Việt Nam được xếp vào nhóm 10 quốc gia có thu nhập thấp nhất thế giới.
Nền kinh tế bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, mở cửa, hội nhập trong 40 năm liên tục. Đây là giai đoạn Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là quá trình đa dạng hóa sở hữu, đa dạng hóa thành phần kinh tế, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, cổ phần hóa xí nghiệp quốc doanh, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, xóa bỏ bao cấp, đẩy mạnh cổ phần hóa, mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, xóa bỏ độc quyền ngoại thương và thúc đẩy xuất khẩu.
Việc bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước, gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ (BTA), gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tiếp tục đàm phán ký kết nhiều hiệp định thương mại, đầu tư khác đã tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam tiếp nhận thực chất cơ chế thị trường, kết nối sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Điểm đặc biệt là Việt Nam đã tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định đối tác châu Á - Thái Bình Dương tự do và tiến bộ (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã thúc đẩy sự tham gia sâu hơn của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
Có thể thấy trong 40 năm đổi mới, hội nhập và phát triển, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo mô hình độc đáo, khác lạ, đặc thù và thành công, đó là mô hình 1-2-3-4-5.
Số 1 để chỉ một mô hình duy nhất chưa có trong tiền lệ là mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Số 2 để chỉ 2 trụ cột trong mô hình là trụ cột Nhà nước xã hội chủ nghĩa và trụ cột nền kinh tế thị trường. Nhà nước điều tiết thị trường và thị trường điều tiết doanh nghiệp.
Số 3 chỉ 3 đột phá chiến lược gồm đột phá thể chế, đột phá cơ sở hạ tầng và đột phá phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được đề xuất năm 2006 trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X.
Số 4 chỉ 4 nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam gồm xây dựng Đảng là then chốt, phát triển kinh tế là trọng tâm, bảo đảm an ninh - quốc phòng là nhiệm vụ thường xuyên và phát triển văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.
Số 5 để chỉ 5 thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế tiểu chủ, cá thể.
Mô hình tổ chức kinh tế đã giúp Việt Nam vượt qua được các cuộc khủng hoảng quan trọng như khủng hoảng hệ thống xã hội chủ nghĩa năm 1991, khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997, khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu 2008 và khủng hoảng đại dịch COVID-19 năm 2020-2022.
Mô hình phát triển kinh tế Việt Nam chứng tỏ được thiết kế và vận hành phù hợp với điều kiện đất nước, bối cảnh quốc tế và năng lực điều hành của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và ý nguyện của nhân dân. Đây là mô hình có sức chống chịu rất cao, đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình với thu nhập trung bình, thu hút thành công đầu tư nước ngoài, thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh và tăng được lòng tin vững chắc của đối tác, cộng đồng quốc tế. Tăng trưởng GDP bình quân 40 năm ở con số khoảng 6%, thuộc nhóm đầu của thế giới. Đây là mô hình phát triển kinh tế sáng tạo của Việt Nam, mang đặc thù tư duy kinh tế Việt Nam và phục vụ lợi ích của nhân dân và dân tộc Việt Nam.
Từ năm 2025 Việt Nam bắt đầu bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình. Đây là kỷ nguyên Việt Nam nỗ lực cao nhất để đạt kỳ vọng chưa từng có trong 40 năm đổi mới kinh tế trước đó - tăng trưởng GDP 2 con số liên tục trong nhiều năm với những nền tảng phát triển vững chắc được tích lũy trong 40 năm đổi mới.
Tăng trưởng cao thu hút và hấp thụ nhiều nguồn lực cả từ trong nước và nước ngoài, tạo đà cất cánh nền kinh tế, tiếp tục cải thiện cơ bản vị thế đất nước lần thứ 2 trên bản đồ kinh tế thế giới vào thời điểm kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có 4 lực đẩy giúp Việt Nam cải thiện cơ bản vị thế lần thứ 2 bước vào kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước hoàn thiện theo chiều sâu, bao trùm, thể hiện tính tiên phong và mở đường của thể chế trước những biến động khôn lường của tình hình thế giới và khu vực để bảo đảm vững chắc sự ổn định hệ thống chính trị. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và quá trình phát triển, tăng cường lòng tin, tinh thần đoàn kết của các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Thể chế hoàn thiện theo hướng tiếp nhận sáng tạo tiến bộ khoa học thể chế, công nghệ hiện đại, phương thức huy động nguồn lực, kiến tạo mô hình hiệu quả và phục vụ cao nhất mục tiêu phát triển, bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của mọi tầng lớp nhân dân.
Đồng thời, thể chế hoàn thiện theo hướng thượng tôn pháp luật. Theo đó, hệ thống pháp luật được tiếp tục cập nhật, đồng bộ hóa, minh bạch hóa, tiêu chuẩn hóa, loại bỏ triệt để sự chồng chéo, sơ hở và bảo đảm cao nhất sự phù hợp với pháp luật, thông lệ và cam kết quốc tế Việt Nam đã tham gia.
Thể chế là chỗ dựa để phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường hàng hóa, dịch vụ, đất đai, lao động, khoa học - công nghệ, tài chính - tiền tệ, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng và thúc đẩy kết nối với thị trường quốc tế. Cơ cấu bộ máy được sắp xếp tinh gọn về cấp độ, tối giản và tối ưu về thủ tục, gia tăng hiệu năng, hiệu quả và hiệu lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ và sứ mệnh.
Môi trường kinh doanh được cải thiện theo hướng tạo thuận lợi cao nhất cho các hoạt động đầu tư kinh doanh, thân thiện, giảm thiểu chi phí phi chính thức, tối thiểu thời gian giải quyết các loại thủ tục và đối xử công bằng thực sự với tất cả các chủ thể kinh doanh. Nguồn nhân lực vận hành thể chế là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về phẩm chất chính trị, sự liêm chính, đạo đức công vụ, trình độ chuyên môn sâu và được trang bị kỹ năng giải quyết vấn đề chuyên nghiệp.
Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số theo hướng tăng đầu tư để phát huy hiệu quả vai trò then chốt, sức lan tỏa sâu rộng đến cơ cấu kinh tế để chuyển dịch cơ bản cơ cấu theo hướng tăng nhanh tỉ trọng các ngành sử dụng tiến bộ mới nhất của khoa học - công nghệ, các ngành sử dụng nguồn lao động chất xám.
Giảm thiểu phát triển ngành sử dụng lao động giản đơn hay tài nguyên. Phát triển các mô hình kinh doanh mới dựa trên đổi mới sáng tạo, thông minh, chuyển đổi số để phát huy tác động của trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, tự động hóa, công nghệ chuỗi khối để thay thế các mô hình truyền thống đã bộc lộ hạn chế về hiệu quả và gặp phải những giới hạn phát triển khi bước vào giai đoạn mới với tiêu chuẩn mới kinh tế, xã hội và quản trị (ESG) cũng như yêu cầu khắt khe trong chuyển dịch năng lượng, thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân tương xứng với vị trí, vai trò của một thành phần kinh tế quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế đất nước. Cùng với việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, năng lực cạnh tranh cao của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân để triệt để khai thác mọi tiềm năng phát triển, tăng khả năng huy động sức mạnh của các tầng lớp nhân dân. Từ đó, giảm thiểu sự lãng phí, tăng giá trị xã hội, tạo thêm việc làm và sinh kế, thúc đẩy phát triển thị trường ở mọi cấp độ.
Phát triển kinh tế tư nhân còn là cách thức để phát huy tối đa nguồn lực ngoài nhà nước, giảm bớt gánh nặng ngân sách quốc gia về an sinh xã hội và có thể tăng thu cho ngân sách nhà nước khi tăng được số lượng doanh nghiệp tư nhân thêm 2 triệu doanh nghiệp đến năm 2030. Đây cũng là thời điểm Việt Nam có ít nhất 20 tập đoàn kinh tế tư nhân có khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Với lực lượng này, kinh tế tư nhân Việt Nam thực sự là một lực lượng kinh tế to lớn, có thể làm thay đổi trạng thái phát triển, quy mô kinh tế và vị thế kinh tế quốc gia khi phát triển đúng hướng.
Nếu huy động thêm tư nhân Việt Nam ở nước ngoài với khoảng 4 triệu Việt kiều với kiến thức chuyên môn đứng hàng đầu thế giới nhiều lĩnh vực, sức mạnh tài chính, đổi mới sáng tạo và quan hệ kinh doanh, kinh tế tư nhân Việt Nam sẽ còn nhiều cơ hội phát triển và đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước. Điều này đòi hỏi chiến lược, chính sách, cơ chế công cụ huy động nguồn lực tư nhân là người Việt hiệu quả và thực chất hơn.
Tăng cường tính chủ động, tích cực, thực chất hội nhập quốc tế để vừa cải thiện sức chống chịu của nền kinh tế, vừa tận dụng triệt để cơ hội phát triển, vừa khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế. Thực tế cho thấy, hội nhập quốc tế chủ động, tích cực và ngày càng thực chất tạo ra những bước phát triển đặc biệt quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam nếu chưa nói là tạo ra những bước ngoặt lớn trong hành trình phát triển đất nước.
Việt Nam, nếu khai thác triệt để các cam kết trong các quan hệ hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện, đối tác kinh tế chiến lược và những ưu đãi trong 17 Hiệp định Thương mại Tự do, chắc chắn sẽ tạo động lực lớn hơn nữa trong thu hút đầu tư nước ngoài vào thúc đẩy xuất khẩu. Các hiệp định này còn là cơ sở hoàn thiện thể chế, pháp lý trong nước, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi các chính sách, quy định, công cụ và biện pháp áp dụng đối với chủ thể kinh doanh.
Tăng cường sử dụng các công cụ điều tiết bằng kinh tế, giảm thiểu điều tiết bằng mệnh lệnh hành chính hoặc hình sự hóa các sai phạm kinh tế, thương mại, đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thân thiện, có thể dự báo và có tính nhân văn cao trong phát triển.
Các cam kết quốc tế dẫn dắt các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với các thị trường quốc tế rộng lớn, các trung tâm kinh tế - tài chính - công nghệ hàng đầu thế giới cũng như các công ty, tập đoàn đa quốc gia, các nhà tài phiệt quốc tế. Nếu đẩy mạnh xúc tiến thương mại và đầu tư hiệu quả, quy mô giao dịch thương mại và đầu tư của Việt Nam sẽ tăng lên rất lớn. Xét về kim ngạch xuất nhập khẩu với lợi thế so sánh cao trong sản xuất và cung ứng nhiều mặt hàng như điện thoại, máy tính, dệt may, nông sản… và nhập khẩu nhiều nguyên nhiên liệu, linh kiện, chi tiết, phụ tùng… tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam có khả năng tăng cao hơn mức tăng trưởng bình quân năm GDP từ 1,5 - 2 lần. Năm 2025, con số này có khả năng đạt kỷ lục khoảng 1000 tỉ USD và giai đoạn tiếp theo có thể còn cao hơn.
Xét về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, giai đoạn từ 2026 trở đi, với sự hấp dẫn ngày càng cao môi trường đầu tư, mỗi năm Việt Nam thu hút bình quân khoảng 30-35 tỉ USD vốn thực hiện. Cùng với đó, số lượng du khách quốc tế đang gia tăng với tốc độ khá cao và có thể gấp 1,5 – 1,7 lần so với trước đại dịch trong vòng 5 năm tiếp theo.
Động lực hội nhập còn thể hiện ở việc đặt ra yêu cầu hoàn thiện thể chế để tương thích với yêu cầu của đối tác, cam kết toàn cầu và xu hướng phát triển thương mại và đầu tư bền vững. Đó là những lực đẩy lớn đối với cả cấp Chính phủ và doanh nghiệp cần phải đồng hành để chuyển từ áp lực thành động lực, từ thách thức sang cơ hội.
Laodong.vn
Nguồn:https://laodong.vn/emagazine/kinh-te-viet-nam--80-nam-khang-dinh-vi-the-tren-ban-do-the-gioi-1565527.ldo
Bình luận (0)