Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Ký hiệu của bản sắc Mường

VHXQ - Trong cộng đồng người Mường, nhìn vào hoa văn trên gùi hay nong nia, người ta có thể nhận ra chủ nhân thuộc dòng họ nào, vùng bản nào. hoa văn trở thành căn cước văn hóa, gắn bó mật thiết với đời sống xã hội người Mường.

Báo Đà NẵngBáo Đà Nẵng02/10/2025

Sản phẩm đan lát truyền thống của người Mường. Ảnh: PHAN VINH
Sản phẩm đan lát truyền thống của người Mường. Ảnh: PHAN VINH

Dù số lượng người Mường không đông như các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, chỉ một cộng đồng nhỏ với hơn ngàn người, nhưng nghề đan lát và hoa văn trên sản phẩm của người Mường ở xã Trà My (thành phố Đà Nẵng) vẫn được gìn giữ. Đó như cách khẳng định sự hiện diện văn hóa trong bức tranh đa sắc tộc của xứ Quảng. Đây cũng là minh chứng cho sự giao thoa: hoa văn Mường hòa quyện với ảnh hưởng của Cơ Tu, Xê Đăng, tạo nên sắc thái riêng biệt.

Nghề đan lát truyền thống

Nói đến người Mường, nhiều người thường liên tưởng đến những nếp nhà sàn, những làn điệu dân ca Mường và lễ hội đậm chất dân gian. Nhưng có một mảng di sản ít được nhắc tới, song lại thấm đẫm hồn cốt văn hóa, đó là nghề đan lát - nghề thủ công đã song hành với đời sống đồng bào từ bao đời.

Họa sĩ Phan Cẩm Thượng cho rằng, theo tiếng Mường cổ, Mường (Muang) có nghĩa là một vùng đất, một khu vực có người Mường sinh sống. Tỉnh Hòa Bình thời Pháp thuộc được gọi là tỉnh Mường. Ở Hòa Bình có bốn Mường lớn nổi tiếng: Nhất Bi, Nhì Vang, Tam Thàng, Tứ Động - Tức là Mường Bi (Tân Lạc), Mường Vang (Lạc Sơn), Mường Thàng (Cao Phong) và Mường Động (Kim Bôi). Ông cho rằng, người Mường sống hoàn toàn dựa vào thiên nhiên, mọi đồ dùng phần lớn đều từ tre gỗ đất ra cả, trong công cụ lao động rất ít sắt, và nghề rèn sắt của người Mường cũng không cao.

Trong đời sống người Mường, tre nứa, mây rừng là nguyên liệu gắn bó từ chiếc gùi, tấm phên, chiếc nong nia, cho tới đồ đựng lúa, dụng cụ săn bắt. Đan lát trở thành một nghề phổ biến trong các Mường. Đỉnh cao của đồ đan là đan chiếc mâm hè, mâm này chỉ dùng để cúng. Vành mâm được đan bằng mây.

Việc đan lát thường do các lão nông đảm nhiệm, càng già tay nghề đan càng cao, đến lúc chân yếu tay mềm thì thôi. Từ nhỏ, trẻ con Mường đã phải tập đan lát một cách tự nhiên.

“Những đồ đan xong, người ta thường gác lên gác bếp - cái bếp trung tâm sinh hoạt trong ngôi nhà, không bao giờ để tắt lửa - sẽ hong đồ đan cho khô, và bám khói, bồ hóng cho đến khi đen bóng. Những đồ đan được xông khói như vậy có đồ bền cao, chịu được ngấm nước, và chống mối mọt” - họa sĩ Phan Cẩm Thượng viết.

Họa tiết - Thông điệp

Tại xứ Quảng, nơi có cộng đồng người Mường di cư đến, các sản phẩm đan lát không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thường ngày, mà còn mang trong mình ngôn ngữ hoa văn độc đáo, phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan và ký ức văn hóa sâu dày.

Thiên nhiên, hoa quả, đồ gốm… gợi ý cho các hình thù của đồ đan Mường. Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng cho rằng, đây là kết quả của hàng ngàn năm tiếp xúc với cây cỏ trong rừng, với sông suối và đất đai. Hình dạng của đồ đan cứ như sinh ra một cách tự nhiên từ rừng rú vậy.

Nhưng điều làm nên bản sắc không chỉ là công năng, mà chính là những hoa văn đan xen trên mặt sản phẩm.

Hoa văn của người Mường thường theo dạng hình học. Hình thoi là biểu trưng cho ruộng bậc thang với ước vọng mùa màng no đủ. Đường gấp khúc gợi hình núi non trùng điệp, thể hiện sức mạnh bảo trợ của thiên nhiên.

Mắt cáo, mắt lưới là biểu tượng của sự khôn khéo, cảnh giác, cũng là “bùa” trừ tà trong quan niệm dân gian. Họa tiết hoa lá, chim muông thể hiện niềm tin vào sự sinh sôi, nối tiếp. Mỗi họa tiết là một thông điệp, thay cho lời nói, nhắc nhở con cháu về nguồn cội, về mối quan hệ hài hòa giữa con người với đất trời.

Nghề đan lát của người Mường không chỉ tạo ra vật dụng, mà còn là phương tiện tín ngưỡng. Nhiều sản phẩm mang hoa văn đặc biệt được dùng trong các lễ hội, nghi thức. Nếu ở lễ cưới, chiếc gùi hoa văn hình thoi là quà tặng tượng trưng cho sự sung túc. Trong các lễ hội nông nghiệp, nong nia có khắc sóng nước, cầu mong mưa thuận gió hòa. Trong tín ngưỡng phồn thực, họa tiết đan hình đôi, hình lặp thể hiện niềm tin vào sự sinh nở, sự nối dài dòng tộc.

Người Mường ở Trà My thường chọn tre già, nứa chắc, mây rừng dẻo để đan lát. Công đoạn vót nan, chẻ sợi đòi hỏi sự kiên nhẫn. Để tạo hoa văn, người thợ phải tính toán số nan, sợi và cách lồng ghép.

Khi đan, họ thay đổi hướng, độ đan chéo của sợi để tạo hình thoi, mắt cáo, hoặc đan xen màu sắc (sợi nhuộm từ vỏ cây, lá rừng) để nổi bật hoa văn. Đó là sự kết hợp giữa kỹ thuật và mỹ cảm - biến vật dụng thô mộc thành sản phẩm vừa bền chắc, vừa mang giá trị nghệ thuật.

Ngày nay, sản phẩm đan lát của người Mường không chỉ phục vụ sinh hoạt, mà còn được đưa vào du lịch cộng đồng, trở thành hàng thủ công mỹ nghệ được du khách ưa chuộng. Những sản phẩm cách tân từ túi xách, đèn trang trí, vật dụng nội thất cũng được nhiều người trẻ thực hiện.

Những nan tre cứ thế làm nên câu chuyện của người Mường ở xứ Quảng...

Nguồn: https://baodanang.vn/ky-hieu-cua-ban-sac-muong-3305238.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Về làng chài Lộ Diêu ở Gia Lai xem ngư dân ‘vẽ hình’ cỏ ba lá trên biển
Thợ khóa biến vỏ lon bia thành lồng đèn Trung thu sống động
Chi tiền triệu học cắm hoa, tìm trải nghiệm gắn kết dịp Trung thu
Có một đồi hoa Sim tím ngát vùng trời Sơn La

Cùng tác giả

Di sản

;

Nhân vật

;

Doanh nghiệp

;

No videos available

Thời sự

;

Hệ thống Chính trị

;

Địa phương

;

Sản phẩm

;