Mô hình kinh tế bao trùm và vai trò của mô hình này trong nền kinh tế
Hiện nay, nhiều mô hình kinh tế đang được vận hành trên thế giới, như:
Mô hình tăng trưởng truyền thống: Trong mô hình tăng trưởng truyền thống được vận dụng phổ biến gần suốt thế kỷ XX, mục tiêu quan trọng nhất cần hướng tới là giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ mà quốc gia tạo ra, tức là tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người. Trong mô hình tăng trưởng truyền thống, yếu tố về phân phối thu nhập hay các chỉ tiêu xã hội khác hầu như không được coi là có vai trò trong việc quyết định tới tốc độ tăng trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, tăng trưởng kinh tế nhanh hơn chính là lời giải cho mọi vấn đề xã hội. Thực tế đã chứng minh điều đó không hoàn toàn đúng, không chỉ đối với quốc gia đang phát triển, mà cả đối với quốc gia phát triển, tăng trưởng GDP đã không bảo đảm một cách chắc chắn cho việc cải thiện các chỉ tiêu xã hội quan trọng, như về y tế, giáo dục hay phát huy giá trị đạo đức con người, như tính liêm chính, đức hy sinh…
Mô hình tăng trưởng giảm nghèo: Được một số nhà kinh tế của Ngân hàng Thế giới (WB) khởi xướng nhằm mục đích khắc phục một số hạn chế của mô hình tăng trưởng truyền thống. Thay vì chỉ chú trọng tới tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, bỏ qua phân phối thu nhập giữa các thành viên của xã hội, mô hình hướng tới một tiến trình tăng trưởng giúp giảm tỷ lệ người nghèo (tăng trưởng giảm nghèo dạng tuyệt đối) hoặc một tiến trình tăng trưởng, mà người nghèo được hưởng lợi nhiều hơn. Mô hình này đạt được mục tiêu tăng trưởng giảm nghèo, dù có thể gây ra tổn hại tới thu nhập của nhóm không phải nghèo, cũng như làm giảm động lực tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Mô hình kinh tế bao trùm: Được các chính phủ, nhà tài trợ, tổ chức phi chính phủ, nhà kinh tế đề cập nhiều trong những năm gần đây. Mô hình kinh tế bao trùm, ngoài việc nhấn mạnh tới việc tăng trưởng sản lượng tính bình quân đầu người như mô hình tăng trưởng truyền thống; giảm nghèo và thu hẹp bất bình đẳng như mô hình tăng trưởng giảm nghèo, còn có đặc điểm riêng mà các mô hình trước không đề cập tới, như khả năng tạo việc làm, tăng trưởng năng suất lao động, xem xét phân phối thu nhập của tổng thể, tiếp cận vấn đề bình đẳng ngay từ yếu tố đầu vào (tức là nguồn lực để mang lại tăng trưởng). Theo đó, đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế bao trùm có thể được khái quát như sau:
Thứ nhất, hướng tới sự bền vững trong dài hạn, trong đó bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội nhằm mục tiêu cuối cùng là phát triển con người.
Thứ hai, hướng tới việc giảm nghèo, bất bình đẳng và mang lại lợi ích cho nhóm yếu thế. Tăng trưởng bao trùm bao gồm cả khía cạnh thu nhập và các chiều cạnh phi thu nhập của cuộc sống, như vấn đề tiếp cận dịch vụ công, bình đẳng giới, hạn chế liên quan tới vị trí địa lý, dân tộc hay tín ngưỡng, tôn giáo.…
Thứ ba, mô hình tăng trưởng bao trùm cần bảo đảm mọi người có cơ hội được tham gia vào tiến trình tăng trưởng, từ việc ra quyết định cách thức tổ chức để mang lại tăng trưởng, cũng như tham gia vào bản thân quá trình tạo ra tăng trưởng.
Thứ tư, bảo đảm mọi người cần được chia sẻ công bằng lợi ích của quá trình tăng trưởng. Mô hình hướng tới tất cả thành viên trong xã hội, bao gồm người nghèo, cận nghèo, trung lưu và người giàu; nam và nữ; dân tộc đa số với dân tộc thiểu số; các cộng đồng tôn giáo khác nhau; người làm việc trong khu vực nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ.
Như vậy, mô hình kinh tế bao trùm hàm ý về cả sự tham gia và chia sẻ lợi ích. Mô hình kinh tế bao trùm không phải là mô hình tăng trưởng theo kiểu nhà nước phúc lợi, tập trung vào vấn đề phân phối và phân phối lại.
Mô hình kinh tế bao trùm có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, được nhìn nhận từ góc độ tiếp cận doanh nghiệp và quốc gia, biểu hiện cụ thể:
Đối với góc độ tiếp cận doanh nghiệp: Mô hình kinh tế bao trùm giúp tạo ra cơ hội sản xuất, kinh doanh và tiếp cận nguồn lực phát triển bình đẳng cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, quy mô, khu vực địa lý và ngành, nghề. Đồng thời, khu vực doanh nghiệp sẽ có điều kiện tạo ra cơ hội bình đẳng cho người lao động trong tiếp cận cơ hội việc làm, cũng như tạo nhiều việc làm mới cho nền kinh tế. Hơn thế nữa, việc làm tạo ra ở đây phải là công việc có mức năng suất cao và tăng dần theo thời gian, nhờ đó cải thiện mức thu nhập tổng thể của người lao động. Ngoài ra, để có được sự bao trùm trong tăng trưởng thì thành quả của tăng trưởng cần được phân phối công bằng và bao trùm giữa các thành phần kinh tế, quy mô, khu vực địa lý và ngành, nghề sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, mô hình kinh tế bao trùm đem lại cơ hội cho doanh nghiệp, như tạo cơ hội bình đẳng cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận cơ hội kinh doanh và nguồn lực phát triển; tạo cơ hội việc làm cho người lao động; nâng cao năng suất lao động; phân phối kết quả tăng trưởng công bằng giữa các doanh nghiệp.
Đối với góc độ tiếp cận quốc gia: Việc triển khai mô hình này sẽ giúp các quốc gia khai thác tốt nhất lợi thế của hội nhập quốc tế cũng như lợi thế của các vùng, miền. Điều này thúc đẩy quá trình tạo ra của cải vật chất và thu nhập tối đa ở các vùng trong cả nước. Bên cạnh đó, sự bất cập về cơ hội phát triển văn hóa hay tiến bộ, công bằng xã hội của các vùng, miền chậm phát triển cũng sẽ được cải thiện trong quá trình thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các vùng khác nhau.
Thực trạng phát triển mô hình kinh tế bao trùm ở Việt Nam và vấn đề chính sách đang đặt ra
Nhìn từ cấp độ vùng kinh tế:
Hiện nay, Việt Nam đã hình thành sáu vùng kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều.
Bảng 1 cho thấy sự phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều về mức thu nhập bình quân, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ hộ nghèo, hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập GINI, tốc độ tăng trưởng… Một số bất cập nhìn từ góc độ chính sách như sau:
- Về việc di cư đến các vùng khác của người lao động: Một vấn đề đặt ra đối với nhóm người này, như khả năng tiếp cận thị trường lao động, thủ tục đối với việc di cư đến đô thị của người lao động nhập cư và gia đình họ, khả năng ổn định cuộc sống, khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản…
- Chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông kết nối vùng trọng điểm với vùng lân cận còn nhiều bất cập. Theo thống kê điều tra mức sống dân cư, hiện nay có tới 70% người nghèo đang sống ở địa bàn không thuận lợi về giao thông kết nối với trung tâm. Yếu tố này làm cho người lao động ở vùng chậm phát triển rất khó khăn nếu có ý định di chuyển lên vùng động lực tham gia hoạt động kinh tế. Việc thiếu thông tin do hạn chế “giao thông mềm” (thông tin và truyền thông…) cũng làm cho họ bị bỏ lỡ nhiều cơ hội kiếm việc làm trên thị trường lao động.
- Hạn chế về chính sách đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước cho chương trình, dự án hoặc nhà đầu tư trong việc đầu tư cải tạo, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội ở chính khu vực chậm phát triển, khu vực nông thôn, đã làm cho những khu vực này trở nên lạc hậu, không phù hợp với điều kiện mới để có thể thu hút nhà đầu tư, du nhập nghề mới đến các vùng này, chưa tạo ra được dòng “di dân đảo ngược” từ thành thị về nông thôn hay từ vùng động lực về vùng chậm phát triển.
- Chính sách đào tạo nghề cho người dân vùng chậm phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu, chưa gắn với giải quyết việc làm cho người lao động. Việc rà soát, đề xuất, bổ sung danh mục nghề đào tạo, chương trình đào tạo chưa được cập nhật thường xuyên, dẫn đến một số nghề mới, cần thiết, nhưng lại chưa có trong danh mục đào tạo, nên chưa thực hiện được. Ở một số nơi, tổ chức đào tạo nghề chưa có nhiều cách thức thu hút doanh nghiệp cùng tham gia.
Nhìn từ cấp độ doanh nghiệp:
Kinh tế bao trùm nhìn từ góc độ doanh nghiệp được đánh giá theo các khía cạnh, bao gồm: 1- Bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực; 2- Khả năng tạo việc làm; 3- Năng suất lao động; 4- Phân phối kết quả tăng trưởng. Theo đó, doanh nghiệp của Việt Nam đã phát triển khá đa dạng về thành phần, ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động và quy mô. Theo thành phần kinh tế, hiện nay có tới hơn 95% doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài nhà nước, số còn lại là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp khu vực nhà nước. Về quy mô, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm đến 2/3 số doanh nghiệp và đang phát triển dựa vào thâm dụng lao động. Tuy vậy, khả năng tiếp cận các yếu tố của kinh tế bao trùm ở các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Điều này có thể khái quát trên các khía cạnh sau:
Một là, bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực:
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước có nhiều thuận lợi hơn các khu vực doanh nghiệp khác trong việc tiếp cận đất đai, nguồn vốn. Bên cạnh đó, khu vực này cũng có cơ hội tiếp cận lao động có kỹ năng hơn doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI. Tỷ lệ doanh nghiệp tiếp cận thị trường quốc tế của khu vực doanh nghiệp nhà nước cao hơn so với bình quân chung.
- Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước: Tỷ lệ doanh nghiệp trong khu vực ngoài nhà nước có quy mô nhỏ và vừa tiếp cận với hạ tầng cứng thấp hơn nhiều so với hầu hết khu vực doanh nghiệp khác, và thấp hơn so với mức bình quân chung của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Phân phối cơ hội trong tiếp cận kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông đã được cải thiện rất nhiều, tương đối bình đẳng trong khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước với quy mô nhỏ và vừa mặc dù vẫn thấp hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác. Tiếp cận lao động có kỹ năng đã được cải thiện. Phân phối cơ hội bình đẳng hơn trong nội bộ khu vực. Tuy nhiên, doanh nghiệp ngoài nhà nước luôn ở trong tình trạng thiếu hụt nguồn vốn và dòng tiền kinh doanh, nhất là với doanh nghiệp quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải chủ yếu liên quan đến việc tiếp cận gói chính sách về giảm lãi suất ngân hàng và giãn thời gian cho vay; tiếp cận đất đai, thị trường, khách hàng; môi trường kinh doanh chưa thuận lợi; chuỗi cung ứng toàn cầu đứng trước nguy cơ bị gián đoạn, đứt gãy, dẫn tới nhiều hệ lụy cho hoạt động xuất, nhập khẩu và tăng trưởng... Sự phát triển của khối doanh nghiệp này chưa thực sự bền vững. Đặc biệt, sau đại dịch COVID-19, phần lớn doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước ở nước ta đều gặp khó khăn khiến tốc độ tăng trưởng bị chững lại.
- Đối với doanh nghiệp FDI: Phân phối cơ hội và tiếp cận kết cấu hạ tầng mềm, hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông khá bình đẳng. Cơ hội tiếp cận lao động có kỹ năng có sự cải thiện mạnh và gần như bình đẳng trong khu vực doanh nghiệp FDI với chỉ số bình đẳng cơ hội và khoảng 99% doanh nghiệp FDI tiếp cận với lao động có kỹ năng. Tỷ lệ doanh nghiệp FDI tham gia vào hoạt động xuất, nhập khẩu cao hơn nhiều so với mức bình quân chung. Đặc biệt, doanh nghiệp FDI nhận được nhiều ưu đãi, nhất là ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu, nhập khẩu, về tài chính, đất đai.
Hai là, khả năng tạo việc làm:
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Số lượng việc làm bình quân của doanh nghiệp nhà nước đã giảm đáng kể (khoảng 7 lần) trong vòng 10 năm qua do quá trình cơ cấu lại để nâng cao hiệu quả hoạt động. Phân phối việc làm chủ yếu tập trung ở doanh nghiệp lớn hơn, sau đó dịch chuyển theo hướng gia tăng tỷ trọng việc làm của nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước: Doanh nghiệp lớn hơn có xu hướng tạo ra nhiều việc làm hơn. Số lượng việc làm bình quân doanh nghiệp của khu vực này giảm xuống.
- Đối với doanh nghiệp FDI: Tập trung nhiều lao động, nhưng phần nào chưa bảo đảm điều kiện về kết cấu hạ tầng và an sinh xã hội cho người lao động. Hiện tượng tranh chấp, nợ lương, nợ bảo hiểm, mất an toàn lao động... còn hiện hữu gây nguy cơ mất ổn định an sinh xã hội tại các địa phương.
Ba là, năng suất lao động:
Trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay xét theo thành phần kinh tế, doanh nghiệp nhà nước có mức năng suất lao động cao nhất, tiếp đến là doanh nghiệp FDI, cuối cùng là doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước. Trong thực tế, khu vực doanh nghiệp FDI đã đóng góp tích cực vào việc cải thiện năng suất lao động thông qua việc áp dụng công nghệ sản xuất và phương thức quản lý tiên tiến. Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào một số ngành sử dụng lợi thế về nguồn nhân lực, ít đòi hỏi cao về trình độ lao động, trong khi các ngành hiện nay đang được khuyến khích đầu tư, như nông nghiệp chất lượng cao, sản xuất thiết bị y tế, giáo dục, logistics…, vẫn chưa thu hút được nguồn vốn FDI như kỳ vọng. Năng suất lao động của doanh nghiệp ngoài nhà nước còn ở mức độ khiêm tốn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Do chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp, nên năng suất lao động của doanh nghiệp ngoài nhà nước ở mức thấp đã ảnh hưởng nhiều đến năng suất lao động chung của toàn bộ khu vực doanh nghiệp.
Bốn là, phân phối kết quả tăng trưởng:
Nhìn chung, trong các loại hình doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả kinh doanh thấp nhất, mặc dù vốn và doanh thu chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xét theo thành phần kinh tế (chiếm khoảng xấp xỉ 60%), nhưng mức lợi nhuận chỉ chiếm khoảng 30% tổng lợi nhuận của nền kinh tế thu được. Mặc dù hiệu quả kinh doanh thấp nhất, nhưng đây lại là khu vực đóng góp nguồn thuế thu nhập cho ngân sách lớn nhất, trong tổng thuế thu nhập doanh nghiệp thu được, có tới 44% từ khu vực kinh tế tư nhân. Trong khi đó, FDI là khu vực có hiệu quả kinh doanh cao, với tổng lợi nhuận đem lại xấp xỉ 50% tổng lợi nhuận của nền kinh tế, nhưng mức đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách nhà nước thấp. Trong giai đoạn 2016 - 2021, tỷ trọng đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp đến từ doanh nghiệp FDI chiếm trung bình 14% (Hình 1). Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước (bao gồm doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước) lại có sự biến động ngược lại. Sự đóng góp của doanh nghiệp trong nước đạt trung bình 26,4% trong giai đoạn 2016 - 2021. Như vậy, tổng thu ngân sách nhà nước được đóng góp chủ yếu bởi doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước.
Tình trạng phát triển thiếu bao trùm ở góc độ doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp khu vực tư nhân là khu vực dễ bị tổn thương nhất, hiệu quả kinh doanh còn thấp.
Một số giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn chính sách, tạo động lực phát triển mô hình kinh tế bao trùm ở Việt Nam
Để tháo gỡ điểm nghẽn chính sách nhằm thúc đẩy mô hình kinh tế bao trùm ở Việt Nam, trước mắt cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây:
Một là, thể chế hóa khung khổ chính sách vĩ mô để hướng tới thiết lập môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, ổn định và hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Nhà nước cần đặt ra khuôn khổ cơ bản về mức thâm hụt ngân sách hằng năm, tỷ lệ nợ công, tốc độ tăng trưởng cung tiền, lạm phát làm cơ sở cho việc điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ. Trong trường hợp đặc biệt, quy tắc này có thể được điều chỉnh, nhưng cần có sự thống nhất của cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó, phân bổ nguồn lực công một cách hiệu quả, hợp lý, minh bạch và có trách nhiệm giải trình cao. Nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều ở các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao cần được ưu tiên. Chính sách hỗ trợ miễn phí từng bước chuyển dần sang các chính sách hỗ trợ có điều kiện, như tín dụng ưu đãi, hỗ trợ sản xuất... để tạo động lực cho người dân tự vươn lên thoát nghèo. Có cơ chế thu hút tư nhân tham gia đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực xã hội để giảm tải cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra, cần tăng cường sự tham gia của nhân dân trong giám sát thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đối với hoạt động quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động và tài nguyên.
Hai là, đầu tư kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ và phát triển đồng đều hơn giữa các vùng và địa phương. Chính sách phát triển vùng cần hướng tới việc xây dựng thành phố công nghiệp vệ tinh, tăng cường sự kết nối giữa các thành phố. Cách phát triển này sẽ giúp giảm mật độ doanh nghiệp quá dày đặc tập trung vào một số khu vực khiến cho chi phí thuê đất đắt đỏ hơn. Tuy nhiên, để phát triển theo hướng này, đòi hỏi Nhà nước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng đều hơn, bao gồm hạ tầng vận tải, nhà ở, viễn thông… để tạo ra sự kết nối tốt hơn giữa các địa phương, khu công nghiệp. Cách hoạch định chính sách phát triển như đã nêu có thể không mang lại thành công trong ngắn hạn, nhưng sẽ mang lại sự phát triển cân bằng và ổn định đối với tổng thể nền kinh tế trong dài hạn.
Ba là, phát triển thị trường tài chính và tạo lập nguồn vốn ổn định dành hỗ trợ nhóm nghèo, yếu thế, thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. Hệ thống tài chính lành mạnh và chắc chắn sẽ đóng vai trò then chốt nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, góp phần giảm nghèo gián tiếp thông qua tăng trưởng kinh tế, cũng như trực tiếp tác động lên nhóm nghèo và yếu thế thông qua khoản hỗ trợ tài chính trực tiếp. Hệ thống tài chính bao trùm sẽ bảo đảm cho người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ tài chính mà không phải gặp bất kỳ rào cản hay sự phân biệt nào. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, siêu nhỏ cũng có cơ hội tiếp cận nguồn tài chính với chi phí hợp lý, thúc đẩy hoạt động đầu tư, khởi nghiệp sáng tạo trong tương lai.
Bốn là, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ mới theo hướng thân thiện với môi trường thông qua chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng. Nhà nước cần có cơ chế phù hợp đối với doanh nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới sáng tạo, áp dụng công nghệ mới. Các chính sách, như giảm thuế hoặc miễn thuế trong một số năm đầu và giảm thuế trong các năm kế tiếp nên được áp dụng đối với doanh nghiệp khởi nghiệp có mức độ đổi mới sáng tạo cao, đưa ra thị trường dòng sản phẩm mới có tính khác biệt trên thị trường, tạo ra nhiều việc làm; ưu đãi về thuế cũng cần được cân nhắc áp dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới theo hướng thân thiện với môi trường.
Năm là, về việc di cư đến đô thị của người lao động: Cần cải thiện khả năng tiếp cận thị trường lao động, thuận lợi hóa về mặt thủ tục đối với việc di cư đến đô thị của người lao động nhập cư và gia đình, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động nhập cư ổn định cuộc sống, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.
Sáu là, cải cách hệ thống giáo dục theo định hướng ứng dụng nghề nghiệp cao hơn và phát triển đa kỹ năng cho người lao động. Cần cải thiện chất lượng giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề, giúp người lao động có nhiều cơ hội việc làm hơn cùng mức thu nhập cao hơn, tạo ra phân luồng đào tạo nghề hợp lý, giúp giảm tâm lý mong muốn vào học đại học, các trường chuyên nghiệp để tiết kiệm nguồn lực xã hội. Cơ quan liên quan cần cung cấp thông tin để giúp định hướng nghề nghiệp gắn với các trình độ đào tạo: đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác; đối tượng học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông lựa chọn ngành, nghề và bậc học phù hợp với năng lực và điều kiện. Đồng thời, cần quan tâm năng lực đào tạo nghề của cơ sở đào tạo tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Nhà nước cần tập trung cho phát triển giáo dục ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa bằng các chính sách đãi ngộ thỏa đáng để huy động, thu hút nhà giáo có trình độ cao về làm việc ổn định và lâu dài./.
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/1109802/mot-so-diem-nghen-chinh-sach-trong-phat-trien-mo-hinh-kinh-te-bao-trum-o-viet-nam--nhin-tu-thuc-te-vung-va-hoat-dong-cua-doanh-nghiep.aspx
Bình luận (0)