Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ ở nước ta là chế độ bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, tinh thần; phát huy cao độ vai trò của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc thúc đẩy và thực hiện mục tiêu dân chủ, cụ thể ở các khía cạnh sau:
Về chủ thể thực hiện
Chế độ dân chủ ở nước ta, xét về bản chất, là một thể chế chính trị mà trong đó quyền lực chính trị - xã hội thuộc về nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; là chế độ bảo đảm quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần; phát huy cao độ tính tích cực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật, mà ngày càng được thể hiện sinh động trong cuộc sống hằng ngày. Việc thực hiện gặp gỡ, đối thoại của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, cấp cao của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương… với nhân dân; những cuộc tiếp xúc của các đại biểu với cử tri chuẩn bị cho các kỳ bầu cử Quốc hội tạo điều kiện tốt hơn cho người dân thực hiện quyền làm chủ, thực thi quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước và đề đạt nguyện vọng, ý kiến của mình. Điều đó thể hiện sâu sắc bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chế độ dân chủ ở nước ta; thể hiện rõ mục tiêu, động lực của dân chủ XHCN đối với sự phát triển đất nước.
Đảng giữ vai trò lãnh đạo trong việc hoạch định các đường lối, chính sách nhằm hướng đến xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN, nơi dân chủ được coi là nền tảng cho mọi hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội. Trong suốt gần 40 năm qua, nhiều cải cách lớn đã được thực hiện nhằm tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của dân chủ, nhất là ban hành các văn bản pháp luật quan trọng về quyền và nghĩa vụ của công dân. Bên cạnh đó, thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân vào các hoạt động xây dựng chính sách, giám sát chính quyền và phản ánh nguyện vọng của người dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhiều tổ chức xã hội khác đóng vai trò cầu nối giữa chính quyền và nhân dân, giúp đưa tiếng nói của người dân vào trong các quyết sách quan trọng.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, để dân chủ trở thành mục tiêu của mọi hoạt động chính trị. Người dân cần được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra, được quyết những việc liên quan đến quốc kế, dân sinh và được hưởng những thành quả của phát triển.
Về nội dung thực hiện
Trong suốt gần 40 năm đổi mới, Đảng ta kiên trì từng bước đổi mới chính trị phù hợp, đồng bộ với đổi mới kinh tế, từng bước xác lập hệ quan điểm và nguyên tắc xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời tích cực xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở, đề cao và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Quy chế Dân chủ ở xã được ban hành và thực hiện từ năm 1998 (kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11-5-1998, của Chính phủ, tiếp đến là Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, ngày 7-7-2003), sau 12 năm đổi mới. Năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 ra đời là một bước tiến lớn trong thực hiện dân chủ, trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta. Hiến pháp năm 2013 làm nổi bật đặc trưng dân chủ pháp quyền của Nhà nước, đặc biệt là khẳng định vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 được phát triển, thể chế hóa, chế định hóa quyền lãnh đạo, cầm quyền của Đảng một cách chính danh, chính đáng, hợp hiến, hợp pháp; đồng thời, chế định trách nhiệm cao nhất của Đảng đối với xã hội, xác định ràng buộc pháp lý về trách nhiệm của đảng cầm quyền: Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình (khoản 3, Điều 4, Hiến pháp năm 2013).
Tại Đại hội lần thứ XIII (tháng 1-2021), Đảng ta khẳng định 10 mối quan hệ lớn phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng. Mối quan hệ lớn thứ mười được bổ sung lần này góp phần hoàn chỉnh thêm hệ thống các mối quan hệ lớn, đó là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Hiến pháp năm 2013 thể hiện quyền làm chủ của nhân dân ở một tầm khái quát mới, sâu sắc và đầy đủ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chú; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Hiến pháp năm 2013 xác định nhiệm vụ của Nhà nước là phải bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện (Điều 3); trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức là phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân (Điều 8).
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp” được ghi nhận và phát triển thành nguyên tắc trong Hiến pháp. Theo đó, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6).
Để có dân chủ rộng rãi trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, điều cốt lõi là nhận thức đúng đắn và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Đảng viên được quyền bàn bạc, thảo luận và quyết định mọi vấn đề, công việc của Đảng.
Đảng ta luôn tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, lấy đó làm cơ sở để hoạch định và tổ chức thực hiện các quyết định của mình. Đường lối, chính sách được hoạch định trên cơ sở đó là một biểu hiện quan trọng về vai trò của quyền lực nhân dân đối với sự phát triển xã hội.
Đảng thấm nhuần và luôn thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “dựa vào dân để sửa chính sách, sửa cán bộ của mình”. Bằng cách đó, nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng Đảng về chính trị tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Quyền lực của nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng cầm quyền được tăng cường và phát huy.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời cũng là thành viên của Mặt trận, do đó Đảng không thể đứng ngoài để lãnh đạo Mặt trận, mà phải thông qua hiệp thương dân chủ để nhân dân đồng tình, ủng hộ, đồng thuận cùng thực hiện thành công mọi nhiệm vụ. Phát huy vai trò, sự chủ động, sáng tạo và tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên.
Dân chủ được thể hiện trước hết ở sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, nhất là các chủ trương, chính sách có liên quan tới lợi ích sát sườn của mình. Do đó, cần tăng cường xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản ở thôn, làng, bản, ấp, tố dân phố, hoạt động trên cơ sở hương ước, quy ước, không trái với pháp luật; chú trọng bồi dưỡng và hướng dẫn những người có uy tín trong cộng đồng tham gia đóng góp cho phong trào chung; phát huy những mặt tốt của các hình thức cộng đồng truyền thống như làng, bản, dòng họ, gia đình; đồng thời, kịp thời uốn nắn những biểu hiện cục bộ, lệch lạc.
Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị khóa VIII, về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân. Chỉ thị đáp ứng sự mong đợi của nhân dân, được hưởng ứng rộng rãi, đi vào cuộc sống, thực hiện trên diện rộng ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp nhà nước.
Những nơi làm tốt việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở có chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của các thành viên. Nhờ đó, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh được nhân dân hiểu rõ, hăng hái tham gia đóng góp ý kiến và thi đua thực hiện, đạt nhiều kết quả tốt; nhiều tranh chấp, vướng mắc tại cơ sở được hòa giải, giải quyết ổn thỏa, góp phần quan trọng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo không khí chan hòa, cởi mở trong cộng đồng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Các quy định về thực hiện dân chủ được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, nhau như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Cán bộ, công chức, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thanh tra, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tiếp cận thông tin... Đây đều là những văn bản pháp luật quan trọng và thể hiện tính dân chủ cao để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí, quyền làm chủ của mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường đoàn kết.
Để thực hành dân chủ ở cơ sở, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, đặc biệt là Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua và có hiệu lực từ ngày 1-7-2007 và nay là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022.
Nhiều vấn đề liên quan đến quyền làm chủ, quyền tự quyết của nhân dân được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, như: Hiến pháp, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (nay là Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019, 2023), Luật Đất đai, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Hòa giải ở cơ sở, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Thanh tra, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Nhà nước Việt Nam đã nội luật hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế trong các công ước quốc tế đã ký kết về quyền con người, về sự an toàn, bình đẳng, công bằng của con người.
Có thể nói, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề dân chủ ở cơ sở đã tương đối đầy đủ trong điều kiện hiện nay. Các văn bản quy phạm pháp luật đã thể chế hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; điều chỉnh nhiều mặt, nhiều lĩnh vực tạo thành một cơ chế thống nhất để bảo đảm dân chủ được phát huy một cách có hiệu quả cao, phục vụ cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở; từng bước khắc phục được việc huy động sức dân bằng mệnh lệnh hành chính, thay vào đó là cơ chế bàn bạc dân chủ, công khai huy động, tự nguyện đóng góp, giám sát chi tiêu.
Tuy nhiên, trong thực tế, ở nhiều nơi, việc thực hiện quy chế dân chủ còn có rất nhiều hạn chế, bất cập, như: Một số cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; một số cấp ủy, chính quyền còn lúng túng về cách thức tiến hành, vận động quần chúng; nhiều cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới; trình độ dân trí chưa đồng đều, nên việc tiếp thu và thực hiện quy chế dân chủ còn hạn chế, thể hiện ở hai khuynh hướng: Hoặc bàng quan (không quan tâm hoặc ngại yêu cầu, ngại tham gia ý kiến, kiển nghị) hoặc dân chủ quá trớn; việc gắn thực hiện quy chế dân chủ với cải cách hành chính, sửa đổi cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính làm còn chậm; xây dựng hương ước và quy ước nhiều nơi còn làm chiếu lệ…
Về nguyên tắc thực hiện dân chủ và một số giải pháp
Trong suốt quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những nguyên tắc vận hành, thể chế hóa mục tiêu, đưa ra những phương châm hành động nhằm hiện thực hóa dân chủ vào cuộc sống ngày càng sâu, rộng và đầy đủ hơn. Đó là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để thực hiện mục tiêu: Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhờ vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ XHCN đã có bước phát triển mới và đạt được nhiều kết quả trong đời sống xã hội; các thể chế của nền dân chủ đang từng bước được mở rộng và hoàn thiện. Dân chủ là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển xã hội; là điều kiện để nhân dân sáng tạo, đóng góp sức lực, trí tuệ cho công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, để dân chủ XHCN được thực hành ngày càng rộng rãi và thực chất, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:
Một là, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trong đó, đặc biệt quan tâm đến xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Hai là, tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm nâng cao các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân (điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, điều kiện pháp lý...). Dân chủ là một phạm trù chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, dân chủ có quan hệ mật thiết với cơ sở hạ tầng, nhất là các quan hệ kinh tế, nên khi đời sống kinh tế của người dân còn khó khăn, dân trí chưa cao, tâm lý, thói quen tiểu nông còn nặng nề sẽ là những trở lực đối với việc thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, phát triển kinh tế - xã hội; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Đây là một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay để phát huy dân chủ, huy động sức mạnh của toàn thể nhân dân.
Bốn là, đẩy mạnh dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ hóa là quá trình chuyển dân chủ từ lý thuyết thành hiện thực trong thực tiễn cuộc sống, là cuộc vận động xã hội rộng rãi, lôi cuốn mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân. Việc thực hành những chuẩn mực, quy tắc dân chủ, xây dựng lối sống dân chủ phải dần trở thành nền nếp, thói quen, nhu cầu của mỗi người và của cả cộng đồng. Dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội là thực hiện nội dung toàn diện của dân chủ.
Dân chủ XHCN là động lực khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/1134702/nhung-thanh-tuu-ve-thuc-hien-muc-tieu-dan-chu-o-viet-nam-qua-gan-40-nam-doi-moi.aspx
Bình luận (0)