Kết quả, thành tựu quan trọng, nổi bật
Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,… của đất nước đều phát triển nhanh, đưa Việt Nam từ tình trạng lạc hậu, kém phát triển trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2022 là 0,726, thuộc nhóm các nước có trình độ phát triển con người ở mức cao. Hệ số bất bình đẳng trong thu nhập (Gini) của Việt Nam năm 2023 là 0,374, được đánh giá là tiến bộ nhiều hơn trước… Kết quả, thành tựu thực hiện mục tiêu công bằng xã hội (CBXH) thời kỳ đổi mới được thể hiện trên các lĩnh vực cơ bản như sau:
Về công bằng trong lĩnh vực kinh tế
Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), cùng với quyền tự do kinh doanh được hiến định trong Hiến pháp năm 1992 đã tạo ra môi trường sản xuất, kinh doanh tự do, dân chủ và bình đẳng ở Việt Nam. “Mục tiêu cao nhất của thực hiện dân chủ về kinh tế là đạt được tiến bộ và công bằng xã hội”(1).
Chính sách khoán hộ, giao đất cho nông dân theo Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị, về “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” là quyết sách mang tính đột phá, có tác dụng thúc đẩy thực hiện quyền tiếp cận đất sản xuất, góp phần bảo đảm công bằng giữa việc đầu tư nguồn lực sản xuất với lợi ích, hiệu quả sản xuất của hộ nông dân, đồng thời thu hẹp khoảng cách chênh lệch về thu nhập và phát triển giữa nông thôn và thành thị.
Nhiều đạo luật quan trọng về kinh tế được ban hành, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh,… tạo hành lang pháp lý cần thiết cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, quy mô của nền kinh tế Việt Nam ngày càng lớn hơn, năm 2023 đạt 430 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người ở nước ta sau gần 40 năm đổi mới tăng lên khoảng 27 lần, từ 159 USD năm 1985 lên 4.284 USD năm 2023, góp phần thu hẹp khoảng cách thu nhập, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội…
Về công bằng trong lĩnh vực xã hội
Chính sách lao động, việc làm thời kỳ đổi mới phát huy hiệu quả và đạt được những thành tích nổi bật. Trong giai đoạn 2012 - 2020, tỷ lệ thất nghiệp chung trên cả nước duy trì ở mức thấp (2% - 3%). Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động 9 tháng đầu năm 2024 là 2,26%, giảm so với năm 2023. Đặc biệt, Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới.
Do nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, thu nhập bình quân đầu người được nâng lên đáng kể, tốc độ tăng thu nhập bình quân ở nông thôn cao hơn thành thị..., nên khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị, cũng như giữa nhóm 20% dân số giàu nhất và nhóm 20% dân số nghèo nhất cả nước đang được thu hẹp. Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta có chiều hướng giảm mạnh, năm 2023 chỉ còn 3,4%.
Giai đoạn vừa qua, chiến lược phát triển nhà ở quốc gia được triển khai đồng bộ và phát huy hiệu quả. Vì vậy, vấn đề nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp, người lao động,... trong cả nước từng bước được giải quyết, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về nhà ở giữa người thu nhập thấp, người nghèo với người thu nhập cao. Tổng số hộ gia đình có nhà ở kiên cố và bán kiên cố là 97,2%.
Vấn đề bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, đặc biệt là đối với hộ nghèo, hộ gia đình khó khăn, gia đình là thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng... “Hiện nay, cả nước có khoảng 3,356 triệu người, chiếm khoảng 3,356% dân số, đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng tại cộng đồng”(2). Chính sách bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân đã góp phần bảo đảm công bằng trong việc tiếp cận dịch vụ y tế hiện đại giữa các tầng lớp nhân dân lao động.
Về công bằng trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục
Luật Di sản văn hóa, Luật Giáo dục, Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Điện ảnh,... được ban hành là cơ sở pháp lý quan trọng, tác động tích cực đến việc thúc đẩy sự bình đẳng về văn hóa, giáo dục giữa các tầng lớp, dân tộc, vùng, miền... Quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, hiện đại đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế được tiến hành song song với việc bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhà nước có chính sách phù hợp bảo đảm sự phát triển đời sống văn hóa công bằng giữa các vùng, miền; gìn giữ, bảo tồn giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số; bảo đảm sự cân bằng, hài hòa giữa bảo tồn giá trị văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể... Trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo được tôn trọng và bảo đảm thực hiện thông qua quy định pháp luật cụ thể.
Luật Giáo dục quy định cụ thể về quyền bình đẳng về cơ hội học tập của công dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế, đồng thời Nhà nước có chính sách trợ cấp, miễn, giảm học phí cho đối tượng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người thuộc hộ nghèo... Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là chính sách bảo đảm khả năng tiếp cận giáo dục tối thiểu cho mọi người, không phân biệt dân tộc, tầng lớp xã hội, vùng, miền... Năm học 2022 - 2023, tổng số trường học ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, bao gồm cấp mầm non và phổ thông là 20.495 trường với 10.145.199 học sinh.
Về cải cách tư pháp, bảo vệ công lý
Nhằm xây dựng nền tư pháp văn minh, hiện đại, nghiêm minh, bảo vệ công lý, góp phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội thời kỳ đổi mới, ngày 2-1-2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Theo đó, các phiên tòa tiến hành việc chuyển từ hình thức tố tụng xét hỏi sang hình thức tố tụng tranh tụng. Đây là bước tiến quan trọng, mang tính đột phá trong Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng. Nhằm đẩy mạnh Chiến lược cải cách tư pháp, ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW, về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Theo tinh thần cải cách tư pháp của các nghị quyết trên, quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật đạt được tiến bộ quan trọng. Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật, luật, như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Luật sư, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật Đặc xá,… ghi nhận nhiều nguyên tắc tiến bộ của tố tụng hình sự, như tòa án độc lập trong xét xử, bình đẳng trước pháp luật, suy đoán vô tội, tranh tụng, công khai xin lỗi, bồi thường cho người bị xử oan, sai, đặc biệt là quy định điều tra viên, kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ… Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng tạo ra bước đột phá quan trọng, cần thiết trong quá trình xây dựng nền tư pháp Việt Nam văn minh, hiện đại, liêm chính, bảo vệ công lý...
Về bảo đảm quyền bình đẳng của con người
Thực hiện đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng, việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam đã bước sang một kỷ nguyên mới. Hiến pháp năm 2013 hiến định các quyền bình đẳng cơ bản của con người, như quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền bình đẳng nam nữ... Với nhiều cố gắng, nỗ lực, thông qua các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, quyền bình đẳng của công dân được tôn trọng, thực hiện trong tất cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, tư pháp... Vì vậy, vị thế, uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ, bảo đảm quyền con người không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên thế giới.
Một số hạn chế
Về lĩnh vực kinh tế
Quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp công nhận là cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, “quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản, tiếp cận cơ hội kinh doanh, nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác”(3). “Trong phân phối nguồn lực, Nhà nước vẫn dành ưu tiên, ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước, tạo ra “cấm địa” cho khối doanh nghiệp này”(4). Đầu tư, phân bổ nguồn lực công chưa bảo đảm sự công bằng giữa các thành phần kinh tế. Việc tồn tại “đất hai giá” cùng quy định về đền bù, giải phóng mặt bằng chưa hợp lý làm phát sinh một số vấn đề xã hội, như tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa người bị thu hồi đất và chủ đầu tư dự án thương mại trên đất bị thu hồi do chênh lệch địa tô. Người dân, đặc biệt là hộ nghèo, còn gặp khó khăn về thủ tục trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức để phát triển sản xuất, kinh doanh...
Về lĩnh vực xã hội
Do một số chính sách kinh tế - xã hội chưa phát huy hiệu quả tối ưu nên mục tiêu thu hẹp khoảng cách thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo nhất cả nước chưa đạt kết quả như mong muốn. Chỉ số Gini của Việt Nam được cải thiện, song “bất bình đẳng về thu nhập có xu hướng tăng ở những vùng kém phát triển. Tỷ lệ nghèo giảm nhưng chênh lệch giàu nghèo chưa giảm”(5), nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Lao động phi chính thức chiếm tỷ lệ còn khá cao, nằm ngoài chính sách an sinh xã hội, thu nhập không ổn định, cuộc sống bấp bênh, mức sống thấp, đặc biệt là khi hết sức lao động.
Nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng đô thị cao hơn khá nhiều so với đầu tư phát triển hạ tầng giao thông khu vực nông thôn, miền núi. Không ít hộ gia đình dân tộc thiểu số còn ở nhà tạm, nhà đơn sơ. Chính sách bảo đảm an sinh xã hội giữa lao động chính thức và lao động phi chính thức, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều bất cập. “Người dân ở khu vực nông thôn, miền núi gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế tiên tiến, hiện đại ở tuyến trên”(6). Bất bình đẳng giới có nơi còn hiện hữu, ảnh hưởng đến sự phát triển của phụ nữ, trẻ em nữ, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi...
Về lĩnh vực văn hóa
Văn hóa được xem là hồn cốt của dân tộc, song chưa được nhìn nhận, đánh giá đúng về giá trị, vị trí, vai trò trong đời sống xã hội và đối với sự phát triển của đất nước. “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị”(7). “Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn”(8). Chính sách phát triển văn hóa chưa đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hóa đa dạng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, phần nào chưa bảo đảm sự công bằng trong phát triển văn hóa giữa các dân tộc, vùng, miền, cũng như chưa bảo đảm công bằng trong việc gìn giữ, bảo tồn giữa văn hóa vật thể và phi vật thể. Một số chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội còn thiên lệch, đặt lợi ích kinh tế lên trên, chưa coi trọng việc bảo tồn giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống. Trình độ dân trí, học thức,... giữa nam và nữ, giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu vực nông thôn và khu vực thành thị phần nào vẫn còn khoảng cách chênh lệch.
Về bảo vệ công lý, công bằng, lẽ phải
Xây dựng nền tư pháp dân chủ, nghiêm minh, hiện đại, bảo vệ công lý là một cấu thành quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội thời kỳ đổi mới. Để bảo vệ công lý, công bằng, lẽ phải, Hiến pháp năm 2013 quy định các nguyên tắc cơ bản, như bình đẳng trước pháp luật; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tranh tụng trong xét xử... Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định chưa hoàn toàn bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật giữa bên công tố và bên bào chữa. Pháp luật hình sự còn có xu hướng “mở rộng tội phạm hóa, hình sự hóa quá mức cần thiết, chưa thực sự coi trọng giá trị phòng ngừa, tính nhân đạo”(9). Một số loại thủ tục hành chính tư pháp còn phức tạp, yêu cầu nhiều loại tài liệu, giấy tờ, gây khó khăn cho người dân khi thực hiện thủ tục pháp lý tại cơ quan tư pháp, đặc biệt là với người trình độ dân trí thấp, người sống ở vùng sâu, vùng xa, người không thông thạo tiếng phổ thông...
Về bảo đảm thực hiện quyền con người
Quyền con người giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện công bằng xã hội. Quyền bình đẳng của con người là cơ sở để bảo đảm mục tiêu công bằng, bình đẳng giữa nam và nữ, giữa các dân tộc, giữa người thuộc tầng lớp lao động và người có địa vị xã hội, thuộc tầng lớp trung lưu, khá giả,... trong việc tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, người có thu nhập thấp, lao động phi chính thức... dường như ít có cơ hội được tuyển dụng vào cơ quan công quyền, cũng như không có cơ hội ngang bằng so với người thu nhập cao, có trình độ, tầng lớp trung lưu, khá giả trong việc tham gia quản lý nhà nước, xã hội.
Trường hợp công dân tự ứng cử đại biểu Quốc hội còn ít so với số ứng viên được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương, giới thiệu. Đại biểu là nữ giới, người dân tộc thiểu số chưa đạt tỷ lệ cao. Lao động di cư, phi chính thức ở các thành phố gặp nhiều rào cản hơn so với người thường trú trong việc tiếp cận, thực hiện quyền học tập; quyền được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng; quyền bảo đảm an sinh xã hội...
Phương hướng, nhiệm vụ thực hiện công bằng xã hội giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Về phương hướng, mục tiêu
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, vĩ đại về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người… Đây là những tiền đề quan trọng, cần thiết để Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; thực hiện khát vọng đưa Việt Nam trở thành nước có nền công nghiệp hiện đại, đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao. Trong kỷ nguyên mới, mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu cao nhất, bao trùm, xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân. Tuy nhiên, bên cạnh thời cơ và vận hội có được, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: sự bất ổn, nguy cơ suy thoái của kinh tế toàn cầu; tác động, ảnh hưởng của cuộc xung đột vũ trang giữa Nga và U-crai-na, cuộc xung đột vũ trang ở khu vực Trung Đông; tác động bất lợi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến vấn đề lao động, việc làm và thu nhập của lực lượng lao động; những nguy cơ tiềm ẩn của an ninh phi truyền thống… Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội cần phải đáp ứng những tiêu chí, yêu cầu ngày càng cao, ngày càng phức tạp về việc làm, thu nhập, bình đẳng giới, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo... Vì vậy, để thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công bằng xã hội cần xác định những mục tiêu cụ thể:
Một là, tiếp tục thực hiện, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đẩy mạnh Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng; tổng kết, đánh giá, phát huy kết quả, thành tựu thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới; hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia; bảo đảm thực hiện công bằng, bình đẳng về cơ hội phát triển của cá nhân, nhóm, giới và các dân tộc thiểu số; tối ưu hóa việc sử dụng các loại nguồn lực phát triển đất nước; mở rộng quy mô nền kinh tế, nâng cao thu nhập bình quân trên đầu người.
Hai là, hoạch định, xây dựng, ban hành chính sách kinh tế - xã hội, bảo đảm mục tiêu phát triển bình đẳng, đồng đều giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, giữa thành thị, nông thôn và miền núi, giữa dân tộc thiểu số và dân tộc đa số, thúc đẩy bình đẳng giới; phát triển con người, xây dựng xã hội phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh; tăng cường hội nhập, phối hợp với các định chế quốc tế trong việc thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc; nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội ở khu vực ASEAN và trên thế giới.
Nhiệm vụ, giải pháp cơ bản
Thứ nhất, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường đồng thuận xã hội trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế của Đảng và Nhà nước; thúc đẩy thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội; đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình thực hiện, tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ sở; mở rộng sự tham gia, bảo đảm quyền bình đẳng trong việc thảo luận và quyết định những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân.
Thứ hai, đổi mới, hoàn thiện, hiện đại hóa quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm quyền bình đẳng trên thực tế của cá nhân, tổ chức trong việc tham gia đóng góp ý kiến đối với dự thảo dự án luật; hoàn thiện pháp luật, cơ chế, quy trình, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân; đổi mới quy trình, thủ tục giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân…
Thứ ba, tích cực triển khai thực hiện mục tiêu đổi mới quản trị quốc gia theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng; hoàn thiện mô hình, thể chế, hệ thống pháp luật gắn với quản trị quốc gia, từng bước hoàn thiện cơ chế bảo đảm sự bình đẳng trong việc tham gia, phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội trong nền quản trị quốc gia; đổi mới phương pháp, quy trình bảo đảm công bằng xã hội trong việc hoạch định, ban hành, triển khai thực hiện chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và y tế.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế kinh tế, bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các loại hình doanh nghiệp; thực hiện phân phối công bằng các loại nguồn lực và kết quả lao động, sản xuất theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thu hẹp khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm, tầng lớp, khu vực và dân tộc; phát huy hiệu quả chính sách kinh tế, giảm tỷ lệ lao động phi chính thức ở khu vực thành thị và nông thôn; hoàn thành mục tiêu giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp trong lực lượng lao động.
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách, công khai, minh bạch hóa hoạt động quản lý hành chính nhà nước; bảo đảm đối xử công bằng trong việc giải quyết thủ tục hành chính và đầu tư, phân bổ các loại nguồn lực công; tiếp thu ý kiến đóng góp của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp một cách bình đẳng; nâng cao ý thức kỷ luật, trách nhiệm tuân thủ đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức; giữ gìn sự liêm chính của bộ máy nhà nước; bảo đảm nguyên tắc dân chủ, minh bạch, kịp thời, bình đẳng, không thiên vị của nền hành chính.
Thứ sáu, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…
Thứ bảy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, bảo đảm quyền bình đẳng của mỗi con người trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, giáo dục, y tế,… để mỗi người dân đều được hưởng thành quả tốt đẹp của chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ quyền con người, bảo đảm an sinh xã hội,... của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới ./…
---------------
(1) Xem: Vũ Thị Thu Hương: Dân chủ về kinh tế ở Việt Nam: Góp phần vào kết quả của tiến bộ, công bằng xã hội, Chuyên san Hồ sơ sự kiện điện tử, ngày 13-9-2024
(2) Xem: Bùi Sỹ Lợi: Kết quả, thành tựu thực hiện công bằng về lĩnh vực xã hội trong gần 40 năm đổi mới đất nước và nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 9-9-2024
(3) Xem: Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
(4) Lê Thị Vinh: Vai trò của Nhà nước trong đảm bảo phân phối công bằng ở Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề đặt ra, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, t. 34, số 2, 2018, tr. 1
(5), (6) Xem: Bùi Sỹ Lợi: Kết quả, thành tựu thực hiện công bằng về lĩnh vực xã hội trong gần 40 năm đổi mới đất nước và nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tlđd, ngày 9-9-2024
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 84
(8) Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 24-11-2021
(9) Xem: Võ Khánh Vinh: “Thực trạng cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, ngày 25-9-2021
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/1077502/phuong-huong%2C-nhiem-vu-co-ban-nham-phat-huy-thanh-tuu-bao-dam-cong-bang-xa-hoi--trong-gan-40-nam-thuc-hien-cong-cuoc-doi-moi-dat-nuoc.aspx
Bình luận (0)