Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan sản phẩm ứng dụng công nghệ cao của Viettel_Ảnh: TTXVN
1- Hiện nay, không gian mạng đã trở thành không gian chiến lược với nhiều thách thức, đe dọa chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia; là vùng “lãnh thổ đặc biệt” của quốc gia. Chủ quyền quốc gia Việt Nam không chỉ bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển, vùng trời mà cả chủ quyền trên không gian mạng. Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng thiết yếu, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, việc bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng càng trở nên quan trọng và bức thiết. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia trong điều kiện phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Không gian mạng là khái niệm phổ biến từ những năm 90 của thế kỷ XX, dùng để chỉ một thế giới kết nối ảo, với sự phát triển mạnh mẽ của internet, kỹ thuật số, điện toán, công nghệ thông tin, bán dẫn, sản xuất tự động dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và internet. Nhưng không nên hiểu một cách đơn giản không gian mạng chỉ là không gian ảo diễn ra trên các phương tiện truyền thông, mà đó là cuộc sống xã hội hiện thực, là biểu hiện cuộc sống thực trên môi trường mạng. Theo Luật An ninh mạng, không gian mạng “là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian, thời gian”(1). Với chiếc điện thoại thông minh, máy tính bảng hay máy tính cá nhân, có kết nối internet, ai cũng có thể tham gia các phương tiện truyền thông xã hội, không gian mạng đã thực sự trở thành một phần cuộc sống mỗi người, tác động lớn đến đời sống xã hội. Đó là nơi tập hợp các mối quan hệ giữa các cá nhân, nhóm cá nhân, tổ chức trên môi trường internet; là một loại hình cộng đồng xã hội, song mang tính chất ảo, trong đó bao gồm nhiều cộng đồng trực tuyến nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần khác nhau của con người.
Không gian mạng góp phần tích cực vào sự phát triển nhận thức, tư duy và kỹ năng sống của con người; vào sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa cộng đồng; thúc đẩy và mở rộng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, không gian mạng cũng có những tác động tiêu cực, như thông tin trên không gian mạng thật, giả lẫn lộn, thiếu tính chính xác, dễ nhiễu loạn, khó kiểm chứng và kiểm soát; tác động tiêu cực đối với sự phát triển văn hóa cộng đồng; làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật nhà nước, suy giảm quyền lực nhà nước và sức mạnh quốc gia; trở thành môi trường “màu mỡ”, công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch, các tổ chức khủng bố, tội phạm hoạt động, lợi dụng phá hoại kinh tế, tư tưởng, chính trị, quốc phòng, an ninh, lợi ích, chủ quyền quốc gia. Đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, không gian mạng trở thành môi trường tác chiến mới; “Cùng với các môi trường tác chiến trên bộ, trên không, trên biển, vũ trụ, không gian mạng đã trở thành môi trường thứ năm, với sự ra đời của chiến tranh mạng, tác động sâu sắc đến quốc phòng, an ninh thế giới, khu vực và mỗi quốc gia”(2).
Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là bộ phận không thể tách rời của chủ quyền quốc gia, đó là quyền làm chủ, quyền toàn vẹn và bất khả xâm phạm lãnh thổ không gian mạng quốc gia theo quy định pháp luật Việt Nam, phù hợp với quy định luật pháp quốc tế, thể hiện ở các văn bản quy định pháp luật của Nhà nước về không gian mạng. Việt Nam đang khai thác, phát huy những đặc tính ưu việt của không gian mạng; đồng thời, cũng phải đối mặt với những nguy cơ đe dọa chủ quyền, lợi ích quốc gia trên không gian mạng. Các mối đe dọa chủ quyền quốc gia trên không gian mạng rất đa dạng, phức tạp và có tính nguy hiểm cao. Các hoạt động tấn công không gian mạng đa dạng, tinh vi, như làm mất kết nối internet, đánh sập các website của chính phủ, cơ quan, đơn vị, tổ chức; giả mạo các website nhằm lừa đảo; cài cắm vào máy tính cá nhân, lấy tài khoản, mật khẩu; đánh cắp dữ liệu cá nhân (hình ảnh, file, video); tấn công bằng mã độc (theo tệp đính kèm trong email hoặc ẩn trong quảng cáo Skype); tấn công ẩn danh bằng các phần mềm độc hại (phần mềm diệt virus, các trình duyệt); tấn công qua USB, đĩa CD, địa chỉ IP, server… Một số thế lực nước ngoài còn thực hiện hoạt động trinh sát, giám sát, tình báo, bố trí hệ thống vũ khí mạng, sẵn sàng tấn công, xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên không gian mạng.
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là vấn đề cấp thiết và là nội dung quan trọng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc, bao gồm: Bảo vệ các hệ thống thông tin; các chủ thể hoạt động trên không gian mạng; hệ thống dữ liệu, tài nguyên mạng; các quy tắc xử lý và truyền số liệu; bảo đảm quyền bình đẳng trong tham dự quản lý mạng internet quốc tế; độc lập trong vận hành hạ tầng cơ sở thông tin thuộc lãnh thổ quốc gia; bảo vệ không gian mạng quốc gia không bị xâm phạm và quyền quản trị truyền tải, xử lý số liệu của quốc gia. Trong thời đại chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số, công dân số, nhất là lĩnh vực quân sự, quốc phòng, an ninh, không gian mạng đã trở thành môi trường tác chiến mạng, tác chiến thông tin. Đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khai thác, sử dụng và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.
Đảng và Nhà nước ta xác định rõ quan điểm, chủ trương bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng: “Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền và lợi ích trên không gian mạng. Xác lập, quản lý và bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng, trên cơ sở pháp luật Việt Nam và tuân thủ luật pháp quốc tế”(3). Đồng thời, nhấn mạnh: “Cần nhận thức, đánh giá đúng, đầy đủ, sâu sắc về thời cơ, thách thức đối với nước ta trên không gian mạng, xác định đúng đắn mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp để có quyết tâm và biện pháp mạnh mẽ, kiên quyết trong không gian mạng, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới”(4); “Luôn nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”(5).
Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” nêu rõ: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đồng thời, đưa ra hệ thống các quan điểm chỉ đạo, đặc biệt là các quan điểm: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn thông tin của tổ chức và cá nhân là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách rời trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Cán bộ công an Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Công an tỉnh Bắc Giang trong một buổi tác chiến trên không gian mạng_Ảnh: TTXVN
2- Để bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới, phải thực hiện đồng bộ các nội dung, giải pháp trong tổng thể thống nhất, cụ thể, trước mắt cần tập trung thực hiện hiệu quả các giải pháp sau:
Thứ nhất, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, đối với việc bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Vai trò lãnh đạo của Đảng phải được thể hiện cụ thể qua việc bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp trong việc thực thi các giải pháp bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Các nghị quyết, văn bản chỉ đạo chiến lược của Đảng cần được xây dựng rõ ràng, đồng bộ và cập nhật liên tục để phù hợp với bối cảnh công nghệ đang thay đổi nhanh chóng. Gắn với điều đó, cần tăng cường sự chỉ đạo của Chính phủ, trực tiếp là Ban Chỉ đạo An toàn, an ninh mạng quốc gia, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; đồng thời, nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa hai ban chỉ đạo này trong lãnh đạo, chỉ đạo việc bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới.
Thứ hai, quán triệt sâu sắc quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp, lực lượng vũ trang cần nhận thức rõ, bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới là vấn đề bức thiết, có tầm quan trọng đặc biệt. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thể “đến đích”, nếu chúng ta không thực hiện tốt việc phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cũng khó có thể thành công, nếu việc bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng không được thực hiện tốt và hiệu quả, chủ quyền, an ninh quốc gia trên không gian mạng không được bảo đảm. Theo đó, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 25-7-2018, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”; Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 25-7-2018, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược an ninh mạng quốc gia”; Nghị quyết số 51-NQ/TW, ngày 5-9-2019, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia”; Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”… và các luật, nghị định, như Luật An ninh mạng; Luật Công nghệ thông tin; Luật Giao dịch điện tử; Luật Viễn thông; Nghị định số 147/2024/NĐ-CP, ngày 9-11-2024, của Chính phủ, về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”; Nghị định số 53/2022/NĐ-CP, ngày 15-8-2022, của Chính phủ, về “Quy định chi tiết một số điều Luật An ninh mạng”... Đó là hệ thống các quan điểm, chủ trương cơ bản, nhất quán và hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động trên không gian mạng, cho bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên không gian mạng. Các quan điểm, chủ trương đó phải được quán triệt và kịp thời cụ thể hóa trong các chiến lược, các chương trình, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thứ ba, chủ động bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng từ sớm, từ xa, kiên quyết đấu tranh với tội phạm mạng, xây dựng không gian mạng an toàn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thực hiện tốt việc bảo đảm an toàn, an ninh mạng và chủ quyền quốc gia trên nền tảng số và không gian mạng; an ninh, an toàn dữ liệu hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và chủ quyền an ninh dữ liệu quốc gia. Tăng cường hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, an ninh; từng bước ứng dụng công nghệ số trong chỉ huy, điều hành tác chiến của lực lượng vũ trang, cũng như làm chủ công nghệ cao trong hoạt động quốc phòng, an ninh; ngăn chặn kịp thời, hiệu quả các loại tội phạm trên lĩnh vực chuyển đổi số. Tổ chức triển khai và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 29-NQ/TW và Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng vững chắc. “Phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc trong xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng vững chắc; xác lập, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước”(6). “Từng bước ứng dụng công nghệ số trong chỉ huy, điều hành tác chiến của lực lượng vũ trang cũng như làm chủ công nghệ cao trong hoạt động quốc phòng, an ninh. Ngăn chặn hiệu quả tội phạm lĩnh vực chuyển đổi số, chống lừa đảo trực tuyến. Xây dựng, phát huy sức mạnh thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận lòng dân trên không gian mạng để bảo vệ Tổ quốc”(7).
Thứ tư, hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế, chính sách, các điều kiện bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thực hiện tốt việc “Ban hành chính sách, chế độ đối với lực lượng tác chiến không gian mạng, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng và các lực lượng tham gia bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ, sử dụng đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên môn giỏi đối với các lĩnh vực không gian mạng”(8). Chú trọng xây dựng chiến lược quốc gia về an ninh dữ liệu, bảo vệ dữ liệu quốc gia; đồng thời khai thác, phân tích và sử dụng dữ liệu phục vụ phát triển phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm Đại hội XIII của Đảng: “Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số”(9) là một trong ba đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030). Trong đó, đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử, tiến tới Chính phủ số là nội dung trọng tâm nhằm tạo ra những động lực mạnh mẽ để phát triển đất nước trong tình hình mới… Ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và các quy chế, quy định, hướng dẫn về bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định về công tác quản lý, lưu trữ thông tin, dữ liệu quân sự trên môi trường số, tạo thuận lợi cho việc kết nối, chia sẻ thông tin, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh và tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho giám sát, thực thi, thanh tra, kiểm tra thông tin trên các phương tiện truyền thông xã hội. Các cơ chế, chính sách khi xây dựng phải tính toán chặt chẽ và bảo đảm giải quyết hài hòa với các cơ chế, chính sách khác đã ban hành; có sự kế thừa, học hỏi những kinh nghiệm. Đẩy mạnh đầu tư hạ tầng công nghệ bảo mật hiện đại dựa trên trí tuệ nhân tạo mang nhãn hiệu Việt Nam; xây dựng hệ thống LMS để quản lý, quản trị, chia sẻ học liệu số, kỹ năng công nghệ thông tin, an toàn thông tin; phát triển sản phẩm bảo mật “Make in Viet Nam” để bảo đảm chủ quyền, an ninh mạng trong bối cảnh mới.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Chủ động phát hiện và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là vấn đề rất cần thiết. Theo Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam (VNISA), tổng số nhân sự cho an toàn thông tin tại Việt Nam năm 2023 là 3.601 (tăng 11,6% so với năm 2022). Con số này còn quá ít để đáp ứng khối lượng công việc khổng lồ trước các xu thế tấn công mạng vào các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân(10). Để giải quyết tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực an ninh mạng, cần xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu, tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn, cấp chứng chỉ và khuyến khích hợp tác giữa doanh nghiệp và trường học. Bổ sung kiến thức chuyên sâu, chú trọng kiến thức về công nghệ thông tin, số hóa cho giáo dục đào tạo và khai thác hệ thống số hóa phục vụ chỉ huy, điều hành, quản lý. Theo đó, tiếp tục thực hiện tốt Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng, giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Quan tâm phát triển lực lượng chuyên trách, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực công nghệ thông tin, an ninh mạng, bảo đảm tinh thông nghiệp vụ, nhạy bén về chính trị, nắm vững pháp luật. Chú trọng bồi dưỡng: Cách thức nhận biết, tiếp nhận thông tin; khả năng tự vệ, “miễn dịch” trước những thông tin giả, xấu, độc; các kỹ năng nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng và các hành vi vi phạm an ninh mạng; các kỹ năng tự vệ, sử dụng biện pháp kỹ thuật để khắc phục hậu quả trong trường hợp bị tấn công trên không gian mạng; phương pháp, kỹ năng đấu tranh trên không gian mạng cho các lực lượng nòng cốt, chuyên trách. Có chính sách ưu đãi, cơ chế tài chính đặc thù thu hút, giữ chân nhân tài, nhân lực chuyên sâu, tránh “chảy máu chất xám”.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế để bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới.
Tích cực, chủ động tham gia các công ước quốc tế về an ninh mạng phù hợp với luật pháp Việt Nam. Phối hợp có hiệu quả trong thực thi các nghị định thư, các thoả thuận hợp tác phòng, chống tội phạm xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia trên không gian mạng… Tăng cường trao đổi, gặp gỡ, kết nối với các tổ chức, chuyên gia hàng đầu trên thế giới, đồng thời cập nhật các xu hướng mới về an ninh mạng. Tham gia sâu và hiệu quả hơn vào các diễn đàn an ninh mạng quốc tế (WEF, INTERPOL, Liên hợp quốc...), để nâng cao vị thế, trao đổi, học tập kinh nghiệm và thu hút đầu tư vào lĩnh vực an ninh mạng. Tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế trong đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, thù địch chống phá Việt Nam trên không gian mạng./.
----------------------------
(1) Luật An ninh mạng, điểm 3, Điều 2, Chương I
(2) Bộ Quốc phòng: Sách trắng Quốc phòng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 12
(3) Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 25-7-2018, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”
(4) Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 25-7-2018, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”
(5) Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 25-7-2018, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”
(6) Tổng cục Chính trị: Tài liệu Một số nhận thức mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018, tr. 21
(7) Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”
(8) Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 25-7-2018, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 222
(10) Quang Phương - La Duy - Vũ Dung: Phát triển nguồn nhân lực để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, Bài 2: Nhân lực an ninh mạng - Sự thiếu hụt cả lượng và chất, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 29-12-2023, https://www.qdnd.vn/giao-duc-khoa-hoc/chuyen-doi-so/phat-trien-nguon-nhan-luc-de-bao-ve-chu-quyen-quoc-gia-tren-khong-gian-mang-bai-2-nhan-luc-an-ninh-mang-su-thieu-hut-ca-luong-va-chat-758367
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1093302/bao-dam-chu-quyen-quoc-gia-tren-khong-gian-mang-nham-phat-trien-khoa-hoc%2C-cong-nghe%2C-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-quoc-gia-trong-ky-nguyen-moi.aspx
Bình luận (0)